Cộng đồng khí hậu đã sớm nâng giả thuyết khoa học về “biến đổi khí hậu là do con người gây ra” thành một lý thuyết cầm quyền – thông qua các tuyên bố về sự đồng thuận”… Toàn cầu hóa. Phân phối lại của cải. Thỏa thuận Xanh Mới. Tái lập Vĩ đại… có “mẫu số chung” là Biến đổi khí hậu.
Vài ngày trước, vợ chồng tôi đã nói chuyện về thời tiết lạnh giá ở Texas và hậu quả của việc mất điện. Con gái tôi cáu kỉnh khi nghe câu chuyện của chúng tôi và nói rằng: “Vậy là cha mẹ không tin vào sự nóng lên toàn cầu sao?”
“Không hẳn thế. Nếu con muốn thuyết phục cha, hãy trả lời những câu hỏi này”, chồng tôi nói. “Đầu tiên, có đúng là chúng ta có hiện tượng nóng lên toàn cầu không? Hãy xem Texas trở nên lạnh đến mức nào và chúng ta đang có tuyết rơi nhiều bao nhiêu”.
“Các nhà khoa học cho biết đây là do sự nóng lên toàn cầu! Con có thể tìm ra”, con gái tôi nói.
Chồng tôi tiếp tục: “Thứ hai, nếu hiện tượng nóng lên toàn cầu là đúng, thì đó là do carbon dioxide hay do các hoạt động của con người gây ra? Thứ ba, liệu có giúp được gì nếu Hoa Kỳ và Châu Âu ngừng thải khí carbon dioxide trong khi Trung Quốc có thể làm bất cứ điều gì họ muốn? Con biết đấy, lượng khí thải từ Trung Quốc nhiều hơn lượng khí thải từ cả Hoa Kỳ và Châu Âu cộng lại”.
“Sự nóng lên toàn cầu là một chủ đề thú vị cho bài viết của mẹ, mẹ đoán là thế”, tôi xen vào.
“Không! Mẹ có thể viết về bất cứ điều gì, trừ sự nóng lên toàn cầu”, con gái tôi hét lên.
Và chúng tôi tiếp tục tranh luận:
“Tại sao?”
“Bởi vì điều đó thật vớ vẩn!”
“Tại sao nó lại vớ vẩn? Mẹ sẽ nghiên cứu nó”.
“Các nhà khoa học… Liên hợp quốc… NASA cho biết hiện tượng nóng lên toàn cầu là có thật! Nếu mẹ nghi ngờ điều đó, chẳng khác nào mẹ đang nói trái đất là phẳng!”
“Chà, mẹ không nghĩ trái đất là phẳng, và mẹ sẽ thực hiện một số nghiên cứu về hiện tượng nóng lên toàn cầu”, tôi nói.
“Nhưng những gì mẹ viết là về chủ nghĩa xã hội. Đó là chính trị. Trong khi sự nóng lên toàn cầu là KHOA HỌC!”
“Ồ, nếu nó là một môn khoa học, thì mọi người nên được phép tranh luận về nó dựa trên bằng chứng và dữ liệu, phải không? Tại sao trông con buồn thế? Mẹ chỉ tò mò muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi của cha con. Mẹ không nghĩ con sẽ khó chịu nếu mẹ viết về cá voi và rùa biển, đồng thời kiểm tra xem loài nào bơi nhanh hơn”.
…
Tại thời điểm đó, tôi đã quyết tâm phải thực hiện nghiên cứu và tìm hiểu lý do tại sao con gái tôi lại lo lắng về chủ đề này.
Sự giá lạnh ở Texas và nghịch lý của giả thuyết ‘nóng lên toàn cầu’
Kể từ khi con gái tôi đề cập đến NASA, tôi đã nghiên cứu trước hết về NASA. Họ đã công bố một video cho thấy sự thay đổi nhiệt độ bề mặt toàn cầu từ năm 1880 đến năm 2020. Có vẻ như nhiệt độ bề mặt toàn cầu đang tăng cao hơn, đặc biệt là từ năm 2005. Sự gia tăng nhiệt độ ở Bắc Cực là rõ ràng nhất.
Nhưng tại sao Texas – nằm trong Vành đai Ánh dương – lại trở nên lạnh giá như vậy? Theo các phương tiện truyền thông chính thống, như New York Times, biển Bắc Cực ấm hơn và băng biển Bắc Cực mỏng hơn – là lý do khiến các lục địa lạnh hơn ở các nơi có vĩ độ thấp hơn của Bắc Bán cầu. Điều này là do sự ấm lên làm suy yếu “dòng” lưu chuyển để giữ không khí lạnh ở cực, do đó không khí lạnh giá thoát ra các khu vực vĩ độ thấp hơn.
Mặc dù đây là câu trả lời tiêu chuẩn của giới truyền thông, nhưng trong giới khoa học, nó vẫn được coi là một giả thuyết và đã được “thách thức” bởi các nhà khoa học khí hậu lỗi lạc:
“Đó là một ý tưởng thú vị, nhưng các phân tích và mô phỏng quan sát khác về các mô hình khí hậu đã không xác nhận giả thuyết này và chúng ta không coi các lập luận lý thuyết nó dựa trên là thuyết phục.
… Sự trùng hợp tự nó không tạo thành một trường hợp chắc chắn cho quan hệ nhân quả. Các đợt bùng phát không khí lạnh thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả. Điều này đã xảy ra vào mùa đông này, và đã từng gây ảnh hưởng đến Hoa Kỳ vào đầu những năm 1960, cuối những năm 1970 (đáng chú ý nhất là vào năm 1977), và vào năm 1983, khi mà băng biển ở Bắc Cực dày hơn và rộng hơn hiện nay”, theo các nhà nghiên cứu John Wallace, Isaac Held, David Thompson, Kevin Trenberth và John Walsh, trong một bức thư năm 2014 được xuất bản trên Science.
“Trong hơn sáu hoặc nhiều năm qua, đã có một loạt các nghiên cứu mô hình chỉ ra rằng ảnh hưởng nhỏ của sự ấm lên ở Bắc Cực đối với các vĩ độ trung bình. Mức độ kết quả phản hồi được mô phỏng luôn nhỏ hơn những gì mà việc quan sát có thể ngụ ý, vì những lý do không chắc chắn và gây tranh cãi”, theo các nhà nghiên cứu Russell Blackport và James A. Screen, trong một bức thư năm 2020 được xuất bản trên Nature.
Rõ ràng, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lời giải thích thuyết phục về cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông ở Texas – trong bối cảnh trái đất nóng lên. Điều đó khá bất tiện cho sự ủng hộ giả thuyết “ngày tận thế khí hậu”.
Hiện tượng nóng lên toàn cầu được coi là thủ phạm gây ra tất cả các loại thảm họa, như bão, hạn hán, lũ lụt, cháy rừng, sóng nhiệt, sốt rét và mực nước biển dâng cao. Vì vậy, phải chăng cái lạnh của mùa đông khắc nghiệt [cũng] bị gây ra bởi sự nóng lên toàn cầu bằng cách nào đó?
Giống như Liz Sherwood-Randall – Cố vấn an ninh tại quê hương của Tổng thống Biden – nói với các phóng viên vào ngày 18/2 vừa qua: “Những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt mà chúng ta đang trải qua trong tuần này… một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy rằng biến đổi khí hậu là có thật và nó đang diễn ra ngay bây giờ, và chúng ta không chuẩn bị đầy đủ cho nó”.
Sự nóng lên toàn cầu và các cơn bão
“Bão đã được mô tả như là một hậu quả – theo nghĩa đen – liên quan đến những tác động có hại của sự nóng lên toàn cầu”, theo Christopher Landsea, Nhà khí tượng học Hoa Kỳ
Nhờ có Chương Mười sáu (Phần I và II) của cuốn sách “Bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đang thống trị thế giới của chúng ta như thế nào” của The Epoch Times, tôi đã được chỉ ra một cánh cổng dẫn đến một đại dương kiến thức về biến đổi khí hậu.
Christopher Landsea là một nhà khí tượng học và chuyên gia về bão ở Hoa kỳ. Trên trang của ông tại trang web Cục Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia, tôi tìm thấy một bài báo về mối quan hệ giữa bão và sự nóng lên toàn cầu.
Trong bài báo, Tiến sĩ Landsea chỉ ra rằng ông tin rằng sự nóng lên toàn cầu đã xảy ra và các hoạt động của con người đã góp phần vào sự nóng lên. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của ông, “tác động tổng thể của sự nóng lên toàn cầu đối với các cơn bão hiện tại là không đáng kể và có khả năng sẽ còn khá nhỏ, thậm chí trong một thế kỷ nữa kể từ bây giờ”.
Sự nóng lên toàn cầu làm tăng cả nhiệt độ đại dương và nhiệt độ không khí. Theo Tiến sĩ Landsea, nhiệt độ đại dương cao hơn góp phần hình thành các cơn bão nhiệt đới hoặc lốc xoáy, trong khi nhiệt độ không khí cao hơn sẽ cản trở các cơn bão. Các yếu tố khác – như độ ẩm không khí, giông bão và gió – có thể đóng vai trò lớn hơn nhiệt độ đại dương.
Dự đoán của Tiến sĩ Landsea là – nếu nhiệt độ toàn cầu tăng lên đáng kể 2–3°C vào năm 2100, thì số lượng bão có thể giảm 25%, cường độ có thể tăng lên một chút (khoảng 3%), nước dâng do bão có thể tăng 3%, và lượng mưa có thể tăng 10% trong mỗi cơn bão.
Hãy chờ một giây! Chẳng phải chúng ta đang hứng chịu nhiều cơn bão và thiệt hại lớn hơn trong những năm gần đây?
Một số nghiên cứu cho thấy số lượng lốc xoáy và bão nhiệt đới đã tăng từ 6 đến 8 lần mỗi năm trong những năm 1870 – lên 14 đến 16 lần mỗi năm trong những năm 2000, trong khi nhiệt độ bề mặt biển tăng hơn 0,78°C trong thời gian 100 năm.
Tiến sĩ Landsea cho rằng sự gia tăng của các cơn bão có thể là do sự phát triển các công nghệ tiên tiến hơn – giúp phát hiện và giám sát các cơn bão. Các cơn bão nhiệt đới và lốc xoáy hình thành trên các đại dương. Hầu hết hoặc tất cả sức mạnh của chúng sẽ bị tiêu tán trên các đại dương. Ngày nay, các nhà nghiên cứu có máy bay, vệ tinh, radar, phao và các trạm thời tiết tự động để theo dõi các cơn bão. Nhiều công nghệ trong số này không có sẵn từ nhiều thập kỷ trước. Do đó, không thể có được dữ liệu trong lịch sử chính xác về số lượng các cơn bão thực tế.
Một cách khác để đánh giá xu hướng là kiểm tra những cơn bão và lốc xoáy đã đổ bộ vào đất liền. Theo biện pháp này, đã có nhiều trận bão đổ bộ vào năm 1933 hơn năm 2005, và không có xu hướng tăng dài hạn về mặt số lượng.
Đối với thiệt hại gia tăng do bão, Tiến sĩ Landsea giải thích rằng đó là do chúng ta sở hữu nhiều tài sản hơn trên đầu người và dân số trên các đường bờ biển Hoa Kỳ nhiều hơn. Từ Maine đến Texas, dân số ven biển đã tăng từ 10 triệu người vào năm 1900 – lên gần 50 triệu người vào năm 2000.
Nếu tính đến các yếu tố này, hoặc nếu chúng ta tính toán thiệt hại của các cơn bão lịch sử dựa trên xã hội ngày nay, thì bão Katrina năm 2005 không mạnh bằng cơn bão lớn Miami năm 1926, và thiệt hại của các cơn bão từ năm 1996 đến năm 2005 sẽ tương đương với mức độ từ năm 1926 đến năm 1935.
“Không có nghiên cứu ngang cấp nào được công bố phản bác điều này. Tuy nhiên, hồ sơ thiệt hại được bình thường hóa này cung cấp cho chúng tôi một số dấu hiệu về các biến thể khí hậu do bão – có thể không liên quan đến hiện tượng ấm lên toàn cầu”, Tiến sĩ Landsea đã viết.
Sự thật mất lòng
Trong bài giảng nổi tiếng về “Cargo Cult” năm 1974 của mình, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1965 Richard Feynman đã khuyến khích các nhà khoa học thảo luận một cách khách quan về tất cả các bằng chứng liên quan, ngay cả những bằng chứng không ủng hộ câu chuyện. “Đó là sự khác biệt giữa khoa học và vận động”, theo Steven E. Koonin, nhà vật lý lý thuyết, Giám đốc Trung tâm Khoa học Đô thị và Tiến bộ tại Đại học New York.
Tiến sĩ Steven E. Koonin là cựu thứ trưởng phụ trách khoa học của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ. Trong một bài báo mà ông viết cho Wall Street Journal vào tháng 11/2017, ông than thở rằng nhiều nhà khoa học khí hậu dùng dữ liệu ngoài bối cảnh lịch sử hoàn chỉnh để thuyết phục các câu chuyện của họ. Tuy nhiên, thực hành này là vi phạm “các quy chuẩn khoa học cơ bản”.
Ông chỉ ra rằng, trong Báo cáo Đặc biệt về Khoa học Khí hậu của chính phủ Hoa Kỳ – sẽ được công bố vào tháng 11/2021, các mô tả về mực nước biển dâng còn nhiều nghi vấn.
Theo ông Koonin, báo cáo lưu ý một cách đáng ngại rằng trong khi mực nước biển toàn cầu tăng trung bình 0,05 inch một năm trong hầu hết thế kỷ 20, nó đã tăng gấp đôi tốc độ đó kể từ năm 1993. Nhưng báo cáo không đề cập đến tỷ lệ dao động về số lượng tương đương nhiều lần trong thế kỷ 20. Các tài liệu nghiên cứu tương tự mà báo cáo trích dẫn cho thấy tỷ lệ gần đây không thể phân biệt được về mặt thống kê – với tỷ lệ cao điểm đầu thế kỷ 20, khi những ảnh hưởng của con người đến khí hậu nhỏ hơn nhiều.
Đây không phải là ví dụ duy nhất về việc sai lệch trong báo cáo.
“Bản tóm tắt của báo cáo tuyên bố rằng các đợt nắng nóng ở Mỹ đã trở nên phổ biến hơn kể từ giữa những năm 1960, mặc dù thừa nhận Bụi Bát những năm 1930 là thời kỳ cao điểm của nhiệt độ cực cao. Tuy nhiên, ẩn sâu trong bản báo cáo là một con số cho thấy rằng các đợt nắng nóng ngày nay không thường xuyên hơn so với năm 1900”, tiến sĩ Koonin cho biết.
Báo cáo này của chính phủ được viết bởi một nhóm khoảng 30 nhà khoa học. Công trình tạo tác này được tiết lộ bởi Tiến sĩ Koonin – cũng xuất hiện trong các báo cáo khí hậu chính thức khác của chính phủ Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc (LHQ).
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của LHQ đã thúc đẩy lý thuyết cho rằng bệnh sốt rét và các bệnh do côn trùng gây ra đang ngày càng lan rộng khi khí hậu ấm lên. Tuy nhiên, theo một bài báo của Forbes vào năm 2011, “Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo số ca tử vong do sốt rét toàn cầu đã giảm gần 40% trong thập kỷ qua, ngay cả khi trái đất trải qua ‘thập kỷ nóng kỷ lục”.
Một bài báo đăng trên tạp chí Nature năm 2011 đã trình bày một nghiên cứu khoa học cho thấy rằng “nhiệt độ ấm hơn dường như làm chậm sự lây truyền của ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, bằng cách giảm khả năng lây nhiễm của chúng”.
Về mối quan hệ giữa hạn hán và sự nóng lên toàn cầu, David Legates, cựu Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu tại Đại học Delaware, đã làm chứng trước một ủy ban của Thượng viện vào năm 2014 rằng “hạn hán ở Hoa Kỳ diễn ra thường xuyên hơn và khốc liệt hơn trong thời gian lạnh hơn”.
William Happer, một nhà vật lý nghiên cứu và cựu phó chủ tịch phụ trách nghiên cứu tại Đại học Princeton, đã làm chứng trước một tiểu ban của Thượng viện rằng: “Bất chấp những lời tuyên truyền rầm rộ, khí carbon không phải là ‘ô nhiễm carbon’, nhưng mang lại năng suất nông nghiệp tăng lên”.
Ông cũng chỉ ra rằng “các mô hình khí hậu chính khác nhau đã dự đoán sự nóng lên nhiều hơn – khác xa những gì quan sát được”.
Các nhà nghiên cứu khí hậu hiện nay hầu như dựa hoàn toàn vào các mô hình máy tính để thực hiện các nghiên cứu của họ, vì tính phức tạp của vấn đề khí hậu khiến chúng ta không thể thử nghiệm và xác nhận trong các điều kiện được kiểm soát trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, các mô hình khí hậu còn lâu mới hoàn hảo.
Theo Joanne Simpson, một nhà khoa học khí quyển từng đoạt giải thưởng của NASA: “Tất cả chúng ta đều biết sự yếu ớt của các mô hình liên quan đến hệ thống bề mặt không khí”.
Nhà vật lý quá cố của Princeton, Freeman Dyson, đã chỉ ra rằng, trong khi các đám mây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến khí hậu, thì các mô hình khí hậu không thể mô phỏng chúng một cách thực tế vì chúng “quá nhỏ và quá đa dạng”.
Ông cũng nói: “Bạn có thể học được nhiều điều từ các mô hình, nhưng bạn không thể học được điều gì sẽ xảy ra trong 10 năm tới kể từ bây giờ”.
Carbon Dioxide – Con người – Và sự nóng lên toàn cầu
Trái đất đã trải qua các chu kỳ ấm lên và nguội đi trong suốt lịch sử. Theo Tiến sĩ Takuro Kobashi và các nhà nghiên cứu Nhật Bản khác, 11.270 năm trước, nhiệt độ ở Bắc Bán cầu đã tăng khoảng 4°C trong vòng vài năm. Vào 8.000 năm trước, nhiệt độ Greenland đã hạ nhiệt khoảng 3°C trong vòng chưa đầy 20 năm, sau đó là sự ấm lên kéo dài trong khoảng 70 năm.
Nhà khoa học Trung Quốc Zhu Kezhen chỉ ra rằng nhiệt độ trung bình hàng năm ở Trung Quốc cách đây 3.000 năm cao hơn nhiệt độ hiện tại khoảng 2°C. Những con voi đã đi lang thang trên các vùng đồng bằng ở cùng vĩ độ như Little Rock, Arkansas. Một nghìn năm trước, Châu Âu đã trải qua 300 năm của Thời kỳ Ấm áp Trung Cổ. Tiếp theo là một khoảng thời gian lạnh 400 năm gọi là “Little Ice Age,” dẫn đến một loạt các tình trạng thiếu lương thực và nạn đói.
Liệu sự ấm lên hiện nay phần lớn là do con người, hay một phần do biến động khí hậu tự nhiên? Điều này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi trong giới khoa học. Một số nhà khoa học tin rằng thông lượng tia vũ trụ thiên hà hoặc các hoạt động mặt trời đóng vai trò lớn hơn trong biến đổi khí hậu so với lượng khí thải carbon do con người tạo ra.
Ngoài ra, theo “Mô hình hóa các tác động khí hậu của việc phát thải khí carbon do con người gây ra: Những điều chưa biết và chưa chắc chắn” – một bài báo nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí Nghiên cứu Khí hậu vào tháng 11/2001, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng hiệu ứng ấm lên của khí nhà kính (chủ yếu là carbon dioxide, metan và Nitơ oxit) có thể được giảm nhẹ bởi các yếu tố như mây tầng.
“Diện tích mây các tầng trên toàn cầu tăng 4% có khả năng bù đắp cho sự nóng lên theo ước tính của nồng độ khí carbon tăng gấp đôi trong khí quyển”, bài báo cho biết.
Vào năm 2013, Tiến sĩ Hans von Storch, một nhà khoa học khí hậu người Đức đã báo cáo về một hiện tượng mà các mô hình khí hậu hiện tại không thể giải thích được:
“Lượng khí thải carbon gần đây thực sự còn tăng mạnh hơn chúng ta lo ngại. Kết quả là, theo hầu hết các mô hình khí hậu, chúng ta lẽ ra phải thấy nhiệt độ tăng khoảng 0,25°C trong 10 năm qua. Điều đó đã không xảy ra. Trên thực tế, mức tăng trong 15 năm qua chỉ là 0,06°C”.
‘Sự đồng thuận’ được tôn vinh và những nhà khoa học bị tẩy chay
Việc thành lập IPCC vào năm 1988 đã đánh dấu sự gia nhập của hiện tượng nóng lên toàn cầu vào lĩnh vực chính trị.
Cứ 5 năm một lần, IPCC công bố một báo cáo có thẩm quyền cho các nhà hoạch định chính sách liên quan đến Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Các mục tiêu của UNFCCC là “để ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở một mức độ mà sẽ ngăn chặn sự can thiệp nguy hiểm của con người vào hệ thống khí hậu… Rõ ràng, giả định ở đây là con người là thủ phạm tạo ra “sự can thiệp vào hệ thống khí hậu”.
Trong lời khai của mình trước Hạ viện Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 2017, Tiến sĩ Judith Curry, một nhà khoa học khí hậu tại Đại học Georgia Tech chỉ ra rằng, với sự ủy quyền của UNFCCC, “cộng đồng khí hậu đã sớm nâng giả thuyết khoa học về biến đổi khí hậu do con người gây ra thành một lý thuyết cầm quyền – thông qua các tuyên bố về sự đồng thuận”.
Tiến sĩ Frederick Seitz, chủ tịch thứ 17 của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, đã xuất bản một bài báo trên Tạp chí Phố Wall vào năm 1996 chỉ trích Báo cáo Đánh giá IPCC mới được công bố. Ông phát hiện ra rằng báo cáo được xuất bản không có bất kỳ tuyên bố nào – thể hiện sự không chắc chắn về vai trò của con người đối với sự biến đổi khí hậu, mặc dù những tuyên bố này nằm trong phiên bản đánh giá cuối cùng được các nhà khoa học đóng góp phê duyệt.
Một báo cáo của Forbes tiết lộ rằng báo cáo đã “sử dụng dữ liệu kiểu chọn lọc, một biểu đồ đã được điều chỉnh”, ngoài những thiếu sót mà Tiến sĩ Seitz đã đề cập. Nó cũng đề cập rằng “hàng chục nghìn nhà khoa học đã đệ đơn phản đối chính thức liên quan đến các hoạt động phi khoa học của IPCC. Một số nhà phê bình gồm cả những người từng ủng hộ trước đây”.
Với những thực hành như vậy, một sự “đồng thuận” được thiết lập: Biến đổi khí hậu là do các hoạt động của con người gây ra; các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ xảy ra; thiệt hại đáng kể và ngày càng tăng sẽ xảy ra.
Tiến sĩ Stephen Schneider, một người ủng hộ “đồng thuận” và là tác giả chính của Báo cáo Đánh giá Thứ ba của IPCC, đã được Jonathan Schell trích dẫn trong một bài báo trên tạp chí Discover năm 1989 nói về chiến lược truyền bá “đồng thuận”:
“Chúng ta cần đạt được một số hỗ trợ trên diện rộng, để nắm bắt trí tưởng tượng của công chúng. Tất nhiên, điều đó đòi hỏi phải nhận được vô số sự ủng hộ từ báo đài. Vì vậy, chúng ta phải đưa ra những kịch bản đáng sợ, đưa ra những tuyên bố đơn giản hóa, kịch tính và ít đề cập đến bất kỳ nghi ngờ nào mà chúng ta có thể có”.
Khi khoa học phục vụ cho chính trị, các nhà khoa học chống lại “sự đồng thuận” phải nếm trải “văn hóa tẩy chay” rất khắc nghiệt
Nhà vật lý Michael Griffin, khi đó là quản trị viên của NASA, đã bày tỏ trong một cuộc phỏng vấn với NPR vào năm 2007 rằng nhiệt độ cao hơn không hẳn là không tốt cho con người. Ông ngay lập tức bị giới truyền thông và một số nhà khoa học khí hậu chỉ trích, và phải xin lỗi về cuộc tranh cãi trước nhân viên NASA vào tuần kế tiếp.
Nhà khí tượng học Thụy Điển Lennart Bengtsson, khi đó là Giám đốc Trung tâm Dự báo Thời tiết Tầm trung Châu Âu, đã bị chỉ trích dữ dội vào năm 2014 vì ông tham gia hội đồng quản trị của Quỹ Chính sách Nóng lên Toàn cầu, một tổ chức thúc đẩy tư duy cởi mở về khoa học nóng lên toàn cầu. Ông đã phải từ chức khỏi quỹ trong vòng hai tuần bởi áp lực quá lớn.
David Bellamy, một nhà thực vật học nổi tiếng người Anh quá cố, đã tuyên bố công khai rằng ông không tin vào “đồng thuận”. Kết quả là vào năm 2004, ông mất vai trò lãnh đạo của mình trong Plantlife International và Royal Society of Wildlife Trusts (Quỹ cộng đồng hoang dã hoàng gia và Quốc tế). BBC cũng ngừng làm việc với ông về các chương trình thiên nhiên. Ông thậm chí còn bị các nhà hoạt động khạc nhổ trên đường phố London.
Tương tự, Tiến sĩ Hendrik Tennekes, một nhà khí tượng học người Hà Lan, đã mất chức giám đốc nghiên cứu tại Viện Khí tượng Hoàng gia Hà Lan vào năm 1995, sau khi xuất bản một bài báo chỉ trích tính chính xác của các mô hình khí hậu.
Danh sách cứ kéo dài. Nhiều nhà nghiên cứu cũng bị mất tài trợ của họ vì lập trường chống lại sự “đồng thuận”.
Trong một phiên điều trần tại Thượng viện năm 2015, Tiến sĩ Judith Curry đã làm chứng rằng: “Một nhà khoa học khí hậu đưa ra tuyên bố về sự không chắc chắn hoặc mức độ nghi ngờ trong cuộc tranh luận về khí hậu – sẽ được phân vào loại phủ nhận hoặc ‘người bán nghi ngờ’, được cho là có tư tưởng hoặc được thúc đẩy bởi nguồn tài trợ từ ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch”.
Bản thân Tiến sĩ Curry đã bị gán cho là “dị giáo khí hậu” vì bà bày tỏ lo ngại của mình về sự “đồng thuận” này.
Liên minh Chính trị-Khoa học về Biến đổi Khí hậu
Bây giờ tôi đã bắt đầu hiểu nỗi sợ hãi của con gái tôi. Một gán nhãn “kẻ phủ nhận” biến đổi khí hậu khiến mọi người liên tưởng đến những kẻ phủ nhận Holocaust (cuộc diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc xã).
“Làm sao bạn dám không quan tâm đến tương lai của nhân loại? Làm sao bạn dám không lo lắng về một trái đất thiêu đốt với những đám cháy lan tràn và những trận cuồng phong kinh hoàng?” Ngoài ra, nguy cơ bị “tẩy chay” về mặt xã hội hoặc nghề nghiệp là rất đáng sợ.
Nhưng điều gì đằng sau liên minh chính trị-khoa học rất rõ ràng về biến đổi khí hậu?
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2010, quan chức Ottmar Edenhofer của IPCC đã đưa ra một số tuyên bố thú tội đáng kinh ngạc: “Về cơ bản, thật là sai lầm lớn khi thảo luận chính sách khí hậu tách biệt với các chủ đề chính của toàn cầu hóa… Phải nói rõ rằng chúng ta phân bổ lại thực tế sự giàu có của thế giới bằng chính sách khí hậu… Mọi người phải giải phóng bản thân khỏi ảo tưởng rằng chính sách khí hậu quốc tế là chính sách môi trường. Điều này hầu như không liên quan gì đến chính sách môi trường với các vấn đề như phá rừng hay lỗ thủng tầng ôzôn nữa”.
Nghe có vẻ quen phải không? Toàn cầu hóa. Phân phối lại của cải. Thỏa thuận Xanh Mới. Tái lập Vĩ đại… có mẫu số chung là Biến đổi khí hậu.
Đây là một hình thức mới của chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, nó không phải là mới. Chủ nghĩa kinh tế Marx và chủ nghĩa xã hội sinh thái không phải là những khái niệm mới. Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhà khoa học người Anh Arthur Tansley, người khởi xướng khái niệm sinh thái học, và nhà động vật học Darwin Ray Lankester, đều là những người theo chủ nghĩa xã hội thời Fabian.
Ông Lankester thậm chí còn là bạn của Karl Marx. Trong khi Marx coi các nhà tư bản là kẻ thù của người lao động, thì Tansley và Lankester lại coi chủ nghĩa tư bản là kẻ thù của tự nhiên.
Chủ nghĩa môi trường là một ‘thuận tiện mới’ cho cuộc chiến chống lại thế giới tự do
Các Hiệp định khí hậu Paris là kết quả của vận động biến đổi khí hậu. Theo thỏa thuận, đến năm 2025, các nước phát triển phải cam kết hỗ trợ 100 tỷ USD mỗi năm cho các nước đang phát triển – để giúp họ “giảm phát thải” và “thích ứng với biến đổi khí hậu”. Đây là một chiến lược phân phối lại của cải tuyệt vời.
Bên cạnh đó, Hoa Kỳ, quốc gia có 12% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới, được cho là sẽ cắt giảm 26–28% lượng khí thải vào năm 2025; trong khi Trung Quốc, quốc gia có tỷ trọng phát thải cao nhất (23%), chỉ được yêu cầu “đạt ngưỡng phát thải carbon không muộn hơn năm 2030”. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có thể làm bất cứ điều gì họ muốn cho đến năm 2030, không có giới hạn chặn trên đối với lượng khí thải.
Loại quy tắc này chắc chắn sẽ làm suy yếu nền kinh tế của thế giới tự do trong khi thúc đẩy quyền lực của chính quyền Trung Quốc.
Các khái niệm như carbon trung tính (cân bằng lượng khí thải carbon dioxide với việc loại bỏ), tín chỉ carbon (giấy phép phát thải có thể giao dịch), và thị trường carbon… đang nổi lên và trên đà phát triển. Một quốc gia phát triển có tín chỉ carbon được sử dụng hết – có thể mua tín chỉ carbon từ các nước đang phát triển. Tín dụng carbon này có thể là một dạng tiền tệ mới và nó là một cách mới để phân phối lại của cải.
Vào tháng 11/2019, Bloomberg đã xuất bản một bài báo với tiêu đề lạnh lùng: “Khí hậu đã thay đổi. Các nhà khoa học cho biết Trái đất cần ít người hơn để vượt qua khủng hoảng khí hậu”. Hơn 11.000 chuyên gia ký vào một tuyên bố khẩn cấp cảnh báo rằng năng lượng, thực phẩm và sinh sản phải được thay đổi ngay lập tức.
Rõ ràng, các phong trào xã hội do lý thuyết biến đổi khí hậu thúc đẩy đang thay đổi thế giới. Dựa trên một giả thuyết được tôn vinh và các mô hình máy tính, nó đang trở thành một chế độ chuyên chế, một cách để lấy đi tự do của chúng ta.
Tác giả: Jean Chen đến từ Trung Quốc và viết bằng bút danh để bảo vệ gia đình cô ở Trung Quốc.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTD Việt Nam.
(Nguồn: ntdvn.com)