23 Người nào ghét Ta là ghét cả Cha Ta. 24 Nếu Ta không làm giữa họ những việc chưa ai từng làm nổi, thì họ khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ đã thấy rõ mà lại còn ghét Ta cùng Cha Ta. 25 Nhưng việc phải xảy đến như vậy để lời trong Kinh Luật được ứng nghiệm: ‘Họ đã ghét Ta vô cớ.’
~ Giăng 15:23-25 ~
Một Biến Cố, Nhiều Thái Độ Phản Ứng Khác Nhau
Thái độ phản ứng và đáp ứng phản ảnh tấm lòng và bản chất của con người khi đối diện với một biến cố, sự kiện hay lẽ thật. Tấm lòng và bản chất đó được dựng nên bởi cộng hợp lại của văn hóa giáo dục, truyền thống (gia đình và xã hội), cá tính, cảm xúc, ý chí, tri thức và linh thần của con người. Thế nên không có gì lạ khi có một biến cố hay sự kiện xảy ra thì ít khi tất cả mọi người liên hệ trong sự kiện đó có cùng một thái độ phản ứng.
Không có gì lạ khi có nhiều phản ứng và đáp ứng khác nhau, thậm chí nghịch lại với nhau, trước sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ kẻ chết. Trong lúc giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái chọn thái độ thù nghịch và vu khống để bác bỏ ý nghĩa và lẽ thật của sự kiện Chúa Giê-su phục sinh thì các môn đệ hết lòng vui mừng tin cậy. Đang khi Thô-ma nghi ngờ nhưng muốn có bằng chứng xác định sự thật, có phải là Ngài đã sống lại từ kẻ chết không – thì Ga-ma-li-ên chọn đứng ngoài lề cuộc tranh luận về sự thật về biến cố Chúa Giê-su phục sinh.
Những thái độ này vẫn tiếp diễn và càng ngày càng gia tăng cường độ của chúng. Đặc biệt, thái độ thù nghịch với Chúa ngày xưa, càng ngày càng được nhân bội lên một cách rõ ràng.
NGÀY XƯA CHỐNG LẠI SỰ KIỆN PHỤC SINH, NGÀY NAY CHỐNG LẠI SỰ SỐNG CHÚA BAN
Các sách Phúc Âm ký thuật lại rằng sau ngày Sa-bát các phụ nữ đến nơi chôn xác Chúa Giê-su. Mác 16.3-4 còn ghi chép rõ hơn về nỗi lo của các bà là làm sao lăn được tảng đá lấp cửa mộ. Nhưng khi đến nơi thì họ chỉ gặp ngôi mộ trống và v.v. Ai có thể lăn tảng đá này đi trong lúc có một toán lính canh ở đó 24/24 (Ma-thi-ơ 27.62-66). Ngôi mộ trống là một bằng chứng cốt lõi của sự kiện Chúa Giê-su phục sinh vinh hiển. Từ một kẻ nghèo hèn thất học thời Chúa Giê-su như các phụ nữ cho đến một nhà thám tử đại tài hay một bác học lừng danh của thế kỷ 21, không ai có thể tìm ra được một “lô-gíc” nào để bác bỏ việc này.
Lẽ ra sự kiện Chúa Giê-su phục sinh phải là một cú ‘shock’ kinh khủng đối với họ, làm họ thay đổi thái độ chống nghịch Ngài trước đây để ăn năn và đáp ứng với “Chúa Cứu Thế” mà Đức Chúa Trời hứa ban cho người Do Thái, mà cũng chính họ đang mong đợi.
Nhưng đây không phải là thái độ của giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị Do Thái.
12 Các thượng tế họp với các trưởng lão và sau khi thảo luận, lấy một số tiền lớn cho các lính canh, 13 căn dặn: “Các anh hãy nói rằng ban đêm khi chúng tôi ngủ, môn đệ của nó đến ăn cắp xác nó đi. 14 Nếu việc này đến tai quan thống đốc chúng ta sẽ thuyết phục người và làm cho các anh khỏi bị phiền phức.” 15 Mấy lính canh nhận tiền và làm y theo lời dặn. Tiếng đồn này đã loan truyền giữa vòng người Do Thái cho đến ngày nay (Ma-thi-ơ 28.12-15).
Họ chọn con đường chống nghịch bất chấp sự thật là Chúa Giê-su đã sống lại vinh hiển.
Dòng “chống nghịch” này tiếp tục gia tăng theo thời gian, và ngày nay, nó diễn tiến ở một dạng ngụy trang cực kỳ tinh vi và với một mức độ kinh hoàng! “Biến cố” Phục Sinh phản chiếu tình yêu và quyền năng biến đổi tuyệt đối của Chúa Giê-su, để ban cho con người một đời sống “sung mãn” trong mỗi ngày (Giăng 10.10b) và chuẩn bị cho con người bước vào sự sống đời vĩnh phúc (Giăng 11.25-26). Nhưng xã hội ngày nay đang xây dựng hệ thống hủy diệt” sự sống của con người một cách toàn diện.
Không chỉ dựa vào những di sản của phong trào chống lại niềm tin Cơ Đốc về mặt lý luận triết lý tôn giáo rất thịnh hành vào đầu thế kỷ 20; Không ngừng lại ở chỗ chỉ tìm kiếm sức mạnh lô-gíc của những xu hướng muốn lấy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để bài bác niềm tin vào một Đấng Sáng Tạo và Tể Trị của cuối thế kỷ 20; Không những dùng văn chương và văn hóa “chống đạo Cơ Đốc” của bao thời đại đã qua; Xã hội chúng ta đang chống lại Chúa bằng những cách tự hủy hoại chính mình.
Tại nhiều nơi trong thế giới mà chúng ta đang sống, xã hội đang chủ trương dùng danh nghĩa tự do, nhân quyền và bình đẳng để hủy hoại mọi lứa tuổi và tầng lớp của chính nó, giết thai nhi (phá thai không vì lý do sự sống của người mẹ!), đầu độc hủy hoại giới trẻ teen và thanh niên, người lớn và người già. Và nó dùng mọi nỗ lực “cải tạo” mọi người để mọi người sẽ xem những điều này là “tự nhiên” và hợp pháp và làm thỏa mãn cái tôi của họ.
1. HỦY DIỆT THAI NHI
Phá thai giết chết 45 đến 55 triệu sự sống trong năm 2016
Nghiên cứu của Guttmacher Institute cho biết trong năm 2016, trên thế giới có 35 trong số 1000 người nữ mang thai đã phá thai. WHO, cơ quan y tế thế giới của Liên Hiệp Quốc, dựa trên các báo cáo chính thức và cho phép công bố, đưa ra con số 40 triệu đến 50 triệu vụ phá thai. Ở đây không kể đến số vụ phá thai, vì nhiều lý do, không được báo cáo. Ở Mỹ, người ta ước tính tỷ lệ phá thai không báo cáo trên toàn quốc là 1/10. Đây là tỷ lệ tương đối thấp so với toàn thế giới (1). Vậy tỷ lệ phá thai không được báo cáo trên thế giới không thể dưới 1/10, và điều này có nghĩa là có ít nhất 45 đến 55 triệu thai nhi bị giết trong năm 2016. Trong lịch sử con người, chưa hề có một tai họa nào, từ chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch cho đến thiên tai có thể giết chết 45 đến 55 triệu sinh mạng trong một năm! Đó là chưa nói đến những tổn thương tâm sinh lý của hàng chục triệu người mẹ (và cha) đang ghi khắc vào cuộc đời của họ những nỗi đau đớn và mặc cảm tội lỗi (cho đến khi họ nhận lãnh được sự tha thứ và xóa sạch toàn vẹn của Chúa Giê-su)
2. DỰNG NÊN NHỮNG THẾ HỆ THIẾU NIÊN KHÔNG PHÂN BIỆT NAM NỮ
Muốn hủy hoại xã hội, người ta phải hủy hoại những thế hệ thanh thiếu niên. Ma túy dù có sức hủy hoại kinh hoàng nhưng không nó không thể thu hút trên 20% các em thiếu niên trên thế giới. Phá thai – dù giết chết nhiều sinh mạng hơn cả chiến tranh, thiên tai và bệnh dịch – không thể ngăn cản được mức “sinh sản” gia tăng không ngừng của nhân loại. Muốn hủy hoại xã hội, người ta phải hủy hoại những thế hệ tương lai ngay từ lúc những thế hệ này mới phôi thai. Cho nên dòng “tà ác” của xã hội chúng ta dùng đến một loại thuốc độc bọc đường là phá hủy ý thức phân biệt giữa người nam và người nữ trong con trẻ và thiếu niên. Thử tưởng tượng vào năm 2027, với 50% các em thiếu niên sống không phân biệt rõ ràng nam và nữ, xã hội và cộng đồng của chúng ta sẽ ra sao?
Đạo quân tiên phong của dòng tà ác này là các phong trào đồng tính luyến ái ở Mỹ và Châu Âu. Ảnh hưởng của các phong trào này mạnh đến nỗi tại các nước ở châu Âu, Mỹ và Úc, các chính quyền đã dùng lý do xây dựng sự bình đẳng về phái tính cho mọi người (nam, nữ, đồng tính nam, đồng tính nữ, lưỡng tính vừa nam vừa nữ cho đến người đổi giống v.v) để đưa ra những đạo luật mang tính chất “độc tôn lẽ thật bình đẳng” trong các lãnh vực giáo dục, truyền thông xã hội, luật pháp v.v. Các đạo luật này bắt tội những người công khai bày tỏ quan điểm của mình cho rằng đồng tính và lưỡng tính là một tình trạng sai lệch của tâm sinh lý chứ không phải là bản chất phái tính thực sự.
Dưới ảnh hưởng của các phong trào đồng tính, ngay cả nhiều công ty lớn trong các quốc gia và nhiều công ty đa quốc đã vượt ra khỏi phạm vi doanh nghiệp, thương mại và đạo đức xã hội – để đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức cho nhân viên của họ trong đó có tiêu chuẩn không kỳ thị phái tính với ý định làm ‘câm miệng’ những nhân viên không ủng hộ vấn đề đồng tính hay dễ dàng bắt lỗi và sa thải họ với lý do họ vi phạm tiêu chuẩn đạo đức công ty.
Phong trào đồng tính và các chính quyền dưới ảnh hưởng của họ lập luận rằng, muốn xây dựng một xã hội tương lai không kỳ thị phái tính thì phải giáo dục những thế hệ thiếu nhi và thiếu niên không có tính kỳ thị nam và nữ; hay kỳ thị người đồng tính, lưỡng tính, đổi giống vv; phải bỏ việc dạy các cháu những từ ngữ chỉ ra phái tính; và phải dạy cho các cháu biết rằng các cháu “chưa” phải là nam hay nữ!
Trong nhà trẻ và trường tiểu học (primary school), họ áp dụng chính sách không dạy cho các cháu dùng các chữ xưng hô giúp phân biệt ra phái tính là nam hay nữ. Các giáo viên phải dạy các em nói chuyện tránh dùng những “nhân vật đại danh từ” nói ra phái tính của những người trong cuộc đối thoại. Một thí dụ: ở Úc, một số trường mẫu nhi và tiểu học bắt đầu tránh việc dạy các cháu dùng chữ “he” để nói về các cháu nam hay “she” về các cháu nữ. Thay vì nói, “he is a good boy” hay “she is a good girl” – họ dạy các cháu nói, it’s a good boy hay it’s a good girl.
Họ biện giải rằng hãy để cho con em của bạn định đoạt ý thức nam nữ khi chúng đến tuổi thiếu niên hoặc là trên 12 hoặc là trên 14 tuổi! Một trẻ em từ nhỏ đến năm 12 hay 14 tuổi không được dạy dùng chữ hay lời nói để nhận ra người khác là nam hay nữ, khi đến tuổi trên 14 sẽ có dòng phát triển tâm sinh lý trong chúng như thế nào? Có phải loại văn hóa và ngôn ngữ của trường học như vậy là một đòn, dùng danh nghĩa giáo dục sự bình đẳng, để hủy diệt con người ở lứa tuổi thiếu nhi và thiếu niên một cách rất sâu độc còn hơn phá thai vô tội không?
Đi xa hơn nữa, những gì được giáo dục ở trường học sẽ sau đó, đến thời điểm chín muồi, trở nên “luật” khuôn mẫu cho xã hội. Chỉ cần chưa đầy 10 năm, Hitler đã giáo dục được một thế hệ thanh thiếu niên người Đức theo chủ nghĩa “người thượng đẳng Aryan” và thế hệ này khi lớn lên là một nguồn cung cấp nhân lực cho “lý tưởng” và “kế hoạch” tiêu diệt người Do Thái. Chỉ cần hơn 10 năm, Staline đã “tẩy nảo” và đào tạo nên những thế hệ thanh niên khát máu là nguồn nhân sự cho vô số những cuộc thanh trừng trong suốt thời gian y lãnh đạo nước Nga. Đến nỗi ngay sau khi Staline chết, một “đệ tử” của y là Khurshev phải họp trung ương đảng cộng sản Liên Xô để tố cáo và sửa sai chủ nghĩa Stalinism.
Một khi đã thực hiện được chủ trương “trồng người”; trồng những thế hệ không phân biệt giới tính nam và nữ, thì luật pháp quốc gia sẽ đi đến chỗ kết tội những người có quan điểm chống lại định nghĩa giới tính của phong trào đồng tính. Bạn đọc có thể cho rằng người viết đã quá bi quan và suy diễn tưởng tượng quá xa. Bạn có biết rằng hiện nay ở nước Đức, trên 50% người dân nói rằng họ cảm thấy nước Đức đang đi trở lại con đường độc tài của chính quyền Cộng Sản Đông Đức thời trước thập niên 1990! Ngày xưa, suy nghĩ, nói, làm và nghe những quan điểm khác với quan điểm của đảng cộng sản là phạm tội! Ngày nay, ngay tại Đức, công phong trào đồng tính về bản chất tâm sinh lý của con người, dù chưa bị kết tội theo luật pháp – là bị tẩy chay, tấn công xã hội và mất việc. Người dân Đức gốc Đông Đức nói rằng họ chưa hưởng được 20 năm tự do ngôn luận và tư tưởng thì nay họ lại đứng trước nguy cơ sống dưới một chế độ “độc tài nhân quyền.”khai chỉ trích hay muốn tranh luận với những quan điểm của
3. TRẬN CHIẾN BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG SỰ SỐNG VÀ XÃ HỘI TƯƠNG LAI
Kinh Thánh cho chúng ta thấy Satan luôn luôn đứng đằng sau và luôn dùng những nhà cầm quyền để tiêu diệt thế hệ trẻ. Satan đang sợ hãi, vùng vẫy trước ngày tàn của nó sắp đến gần.
Nó dùng Pha-ra-ôn để tiêu diệt tất cả những đứa trẻ Hê-bơ-rơ mới sinh vì nó e sợ một Môi-se vĩ đại sẽ giải cứu dân Hê-bơ-rơ thoát khỏi tay Ai-cập. Nó dùng Vua Nê-bu-cát-nết-sa để bắt Đa-ni-ên và ba người bạn trẻ ăn đồ cúng để họ bị ô uế, vì Satan không muốn một nhà tiên tri vĩ đại sẽ được Chúa dấy lên; và nó sợ hãi khi nhìn thấy hình ảnh một thế hệ đứng hàng đầu trong xã hội làm gương tốt cho những người không tin và làm sáng danh Chúa. Nó dùng Vua Sau-lơ để giết chàng trai trẻ Đa-vít, một vị vua vĩ đại trong tương lai. Nó dùng Vua Hê-rốt để giết tất cả trẻ em dưới ba tuổi vì nó không muốn Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế sẽ lớn lên hủy phá công việc của nó và đem sự cứu rỗi cho cả nhân loại.
Ngoài ra, Satan luôn tìm cách dựng nên những thế hệ trẻ không kính sợ Chúa để khi trưởng thành làm công cụ của nó hay đi trong sự lừa dối của nó. Như Vua Rô-bô-am và đám bạn bè kiêu ngạo háo thắng để đánh mất cơ nghiệp của tổ phụ để lại. Như các dòng dõi của các vua Y-sơ-ra-ên, vương quốc phía bắc, đem dân Chúa vào chỗ thờ lạy hình tượng và sống theo nếp sa đọa của các tôn giáo thờ hình tượng này.
Ngày nay, Đức Chúa Trời muốn dùng thế hệ trẻ cho sự phục hưng trước khi Chúa Giê-su trở lại. Như vậy Hội Thánh cần làm gì hôm nay?
Chúng ta cần có những người cha mẹ chị anh ruột thịt hay thuộc linh có tinh thần như người mẹ và chị của Môi-se, họ sẳn sàng làm mọi cách bảo vệ thế hệ trẻ khỏi kẻ hủy diệt. Chúng ta cần có những con người dù lớn tuổi nhưng biết cầu nguyện trong đền thờ như An-ne và Si-mê-ôn, cầu nguyện cho thế hệ sau được dấy lên với tình yêu thương và quyền năng của Chúa. Chúng ta cần có những người cha mẹ thuộc linh có tài dạy dỗ như Phao-lô để Đấng Christ được hình thành trong họ (Ga-la-ti 4:19). Chúng ta cần những chiến sĩ cầu thay như Ê-pháp-ra “chiến đấu luôn luôn trong sự cầu nguyện để” thế hệ này “đứng vững, trưởng thành và hoàn toàn vững tin trong mọi ý chỉ của Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 4:12). Xin Đức Chúa Trời của các thế hệ, của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp ban cho chúng ta những con người để chuẩn bị cho một thế hệ trẻ biết Chúa, giấu Lời Ngài trong lòng để được mạnh mẽ và thắng được kẻ ác (1 Giăng 2:12-14). Xin Ngài dạy và ban sức cho chúng ta để chúng ta là những tấm gương sáng, những mẫu mực (model) làm các em nhìn thấy và tận hưởng nguồn vui cùng ơn sức của một đời sống đi theo Lời Chúa kêu gọi.
Xin Chúa cho chúng ta – từ người lãnh đạo hệ phái hay hội thánh địa phương cho đến người tín hữu – biết hạ mình nhìn thấy tấm lòng, tiềm năng và các ân tứ mà Chúa ban cho các thanh thiếu niên, và biết đầu tư về thuộc linh, công sức và tài chánh vào sự khích lệ, nuôi dưỡng và xây dựng các bạn này trở nên những Đa-vít, Ti-mô-thê, Mác v.v. Xin Chúa thêm cho chúng ta sự sáng và sự khôn ngoan của Ngài để cất nhắc các em và các bạn vào những vị trí xứng đáng với những gì Chúa kêu gọi các em. Xin Chúa dấy các em và các bạn trở thành những thế hệ dựng nên những cơn sóng phục hưng làm biến đổi các thế hệ thanh thiếu niên đồng lứa và tương lai.
Xin Chúa giúp các giáo hội, hệ phái, hội thánh và cá nhân các tín hữu ý thức được những hình thức “lừa dối tinh vi” và tầm hủy diệt “siêu nghiêm trọng” trong những “diễn biến” và “đạo luật” mà các phong trào đồng tính và các chính quyền dưới ảnh hưởng của chúng đang dùng danh nghĩa nhân quyền, bình đẳng và tự do v.v… để hủy diệt các thế hệ thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên con em của chúng ta. Xin Chúa dấy lên các tiên tri như Na-than, Ê-li, Ê-li-sê, Billy Graham, Reinhardt Bonkee etc., để công bố lời Chúa cảnh cáo các chính quyền loại này. Xin Chúa cho có những Cơ đốc nhân bước vào môi trường “công chúng” và “chính trị” như Giô-sép, Đa-ni-ên, William Wilberfoce, Abraham Lincoln v.v… để “phục hưng” chính quyền và chính trị quốc gia.
Sau cùng, mỗi một Cơ đốc nhân phải thi hành trách nhiệm bầu cử của mình với một ý thức hiểu biết về mức “đẹp lòng Chúa” của người mà chúng ta sẽ bầu cho. Đừng chỉ nhìn vào những quyền lợi mà những ứng cử viên hội đồng thành phố hay quốc hội hứa hẹn. Hãy tìm hiểu xem họ có những chủ trương và chính sách phù hợp với đạo đức và văn hóa “Tin Lành” không? Họ có “ngầm” ủng hộ phá thai tự do, hôn nhân đồng tính, nan y tử quyền, áp chế tự do tôn giáo, dung dưỡng những bất công xã hội v.v…không?
A-men.
PHẠM PHI PHI & NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG.
Ngoại trừ được nêu lên, Kinh Thánh dùng trong bài viết là từ Bản Dịch Mới 2002.
(1) Các nguồn thống kê:
- http://www.johnstonsarchive.net/policy/abortion/mapusab-unreported.html;
- https://www.guttmacher.org/fact-sheet/induced-abortion-worldwide;
- http://www.worldometers.info/abortions/