Một nghiên cứu ở Vương quốc Anh đã phát hiện ra rằng những nhân viên y tế chích nhiều liều vaccine COVID-19 bổ sung sau khi nhiễm chủng virus Vũ Hán dễ bị tái nhiễm kinh niên với biến thể Omicron.
Bác sĩ Robert Malone và cũng là một nhà khoa học cho biết, điều này có thể giải thích lý do tại sao những người đã chích một số liều vaccine COVID-19 bổ sung ngày càng trở thành những người cuối cùng phải nhập viện với các triệu chứng COVID-19 nghiêm trọng, đôi khi dẫn đến tử vong.
Trong một cuộc phỏng vấn ngày 21/07 trong chương trình “Crossroad” của EpochTV, Tiến sĩ Malone – nhà phát minh ra công nghệ vaccine mRNA – cho biết hiện tượng này là kết quả của một quá trình được gọi là “dấu ấn miễn dịch.” Theo đó việc tiếp xúc ban đầu với một chủng virus có thể khiến cơ thể không sản xuất đủ các kháng thể vô hiệu hóa để chống lại một chủng mới hơn.
Ông nói thêm rằng quá trình này được củng cố bằng nhiều lần chích ngừa.
Ông nói: “Trên toàn thế giới, chúng tôi nhận thấy những bộ dữ liệu này cho thấy rằng thật không may, những người sắp tử vong và nhập viện là những người được chích ngừa quá mức. Họ không phải là những người có khả năng miễn dịch tự nhiên.”
Vaccine dựa trên chủng virus cũ
Vaccine COVID-19 hiện đang lưu hành [được sản xuất] dựa trên chủng Vũ Hán của virus Trung Cộng, còn được gọi là SARS-CoV-2, gây ra căn bệnh COVID-19.
Một số chủng đã xuất hiện và trở nên ưu thế kể từ khi chủng Vũ Hán thịnh hành, bao gồm cả biến thể Omicron hiện đang chiếm ưu thế.
Vấn đề ở đây là vaccine COVID-19 chỉ sử dụng protein gai, một trong những thành phần của virus. Vì vậy, khi chích vaccine mRNA, hệ miễn dịch sẽ được huấn luyện để chỉ đáp ứng với thành phần protein gai, bác sĩ Malone giải thích.
Ông cho biết, “Nếu kháng nguyên đó hay virus có thay đổi một chút, [hệ miễn dịch] vẫn phản ứng như thể nó là cũ.”
Các loại vaccine COVID-19 [được sản xuất] dựa trên protein gai của chủng virus ban đầu ở Vũ Hán. Tiến sĩ Malone nói rằng chủng virus này không còn tồn tại và lưu hành trong dân số nữa.
Nếu chích nhiều lần một loại vaccine dựa trên một chủng virus hiện đã không còn tồn tại, nó sẽ huấn luyện hệ miễn dịch tập trung ngày càng nhiều hơn vào loại kháng nguyên trong vaccine và bỏ qua bất kỳ thứ nào đó hơi khác, ông Malone giải thích và gọi hiện tượng này là dấu ấn miễn dịch.
Ông Malone nói: “Các tài liệu về dấu ấn miễn dịch là không thể chối cãi. Hiện nay, rất nhiều các loạt bài trong các tạp chí được bình duyệt hàng đầu từ các phòng thí nghiệm hàng đầu trên toàn thế giới, đang ghi lại điều đó.”
Bác sĩ Malone cho biết, hiện tượng dấu ấn miễn dịch đã được công nhận từ lâu trong lĩnh vực chích ngừa, nhưng ít được nhắc đến và những người làm việc trong lĩnh vực chích ngừa không muốn thảo luận về vấn đề này.
Miễn dịch từ vaccine so với miễn dịch tự nhiên
Nhiều người trong số các nhân viên chăm sóc sức khỏe ở Anh từng bị nhiễm chủng virus Vũ Hán và cũng đã chích ba hoặc bốn liều vaccine COVID-19, đã bị lây nhiễm kinh niên với biến thể Omicron, ông Malone cho biết, trích dẫn một bài báo đăng trên tạp chí học thuật Khoa học.
Một bài báo khác được xuất bản trên tạp chí Nature cho thấy sự tiến hóa của virus không phải đến từ dân số nói chung, mà là từ những người bị suy giảm miễn dịch đã chích nhiều liều vaccine. Khoảng 30% dân số được chích ngừa nhiều lần đang bị nhiễm trùng lặp đi lặp lại, bác sĩ Malone nói.
Bác sĩ Malone lưu ý rằng điều này trái ngược với câu chuyện được quảng cáo rằng những người không chích ngừa đang khiến nhiều người dân gặp rủi ro.
Ông Malone trích dẫn một bài báo khoa học từ Qatar chưa được bình duyệt và cho biết, miễn dịch tự nhiên sau nhiễm COVID-19 kéo dài ít nhất 14 tháng, bao gồm khả năng miễn dịch chống lại các chủng Omicron.
Tuy nhiên, khả năng miễn dịch do vaccine chỉ kéo dài trong vài tháng, ông nói thêm.
Khi bị nhiễm chủng virus ban đầu, người đó sẽ tạo ra phản ứng miễn dịch đối với “tất cả các loại protein của virus”, miễn là họ chưa trải qua quá nhiều dấu ấn miễn dịch, tiến sĩ Malone giải thích.
“Nhưng những vaccine đơn giá hoặc đơn kháng nguyên này lại đang kích thích tất cả phản ứng miễn dịch của bạn chống lại một thứ chứ không phải toàn bộ virus. Vì vậy, virus chỉ cần thông qua quá trình tiến hóa về mặt di truyền, điều chỉnh một vài cấu trúc để thoát khỏi đáp ứng miễn dịch,” ông nói. “Và đó chính xác là những gì đã xảy ra với Omicron.”
Có thể thấy một điều nghịch lý rằng hầu hết các quốc gia với nền kinh tế mới phát triển và tỷ lệ chích ngừa thấp có tỷ lệ tử vong do COVID-19 thấp nhất trên thế giới, tiến sĩ Malone nói.
Ông cho biết, “Có khả năng là chúng ta sẽ tiếp tục thấy xu hướng này.”
Theo trang Our World in Data, chỉ 1,4% dân số Haiti đã được chích ngừa và quốc gia này đã ghi nhận 838 ca tử vong do COVID-19, với tỷ lệ 73 ca tử vong trên 1 triệu người.
Tại Nam Phi, nơi 32% dân số được chích ngừa, đã có gần 102,000 ca tử vong, với tỷ lệ 1,717 ca tử vong trên 1 triệu người.
Ở Anh, 75% dân số được chích ngừa và hơn 184,000 người đã tử vong, tương đương 2,736 ca tử vong trên 1 triệu người.
Và ở Hoa Kỳ, 67% dân số được chích ngừa, và 1,03 triệu người đã tử vong vì virus, tỷ lệ là 3,058 ca tử vong trên 1 triệu người.
Các vấn đề khác của vaccine
Bác sĩ Malone đã tiết lộ một vấn đề với vaccine mRNA hiện tại.
Khi chích một loại vaccine vào cánh tay của bệnh nhân, RNA đã được sửa đổi từ vaccine được cho là chỉ tồn tại trong vài giờ, nhưng một nghiên cứu từ Đại học Stanford cho thấy rằng “RNA trong vaccine tồn tại ít nhất 60 ngày,” tiến sĩ Malone nói.
Tuy nhiên, chính phủ chỉ tính đến các phản ứng và bệnh tật do vaccine được ghi lại trên Hệ thống Báo cáo Biến cố Bất lợi của Vaccine (VAERS) trong vòng vài tuần đầu tiên sau chích ngừa, mặc dù vaccine vẫn tồn tại trong cơ thể hai tháng sau đó, bác sĩ Malone cho biết.
Ông nói, “RNA từ vaccine tạo ra nhiều protein gai hơn so với lây nhiễm tự nhiên. Điều đó có thể giải thích lý do tại sao chúng ta thấy nhiều biến cố bất lợi với vaccine hơn so với bản thân bệnh nhiễm trùng, bởi vì protein gai là một độc tố.”
VAERS được thành lập bởi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm để thu thập và phân tích dữ liệu về tác dụng phụ của việc chích ngừa.
Hệ thống dựa trên các cá nhân gửi báo cáo và không nhằm mục đích xác định xem vấn đề sức khỏe được báo cáo có phải do vaccine không, nhưng “đặc biệt hữu ích để phát hiện các mô hình bất thường hoặc không mong muốn trong các báo cáo về biến cố bất lợi. Điều này có thể cho thấy một vấn đề an toàn với một loại vaccine,” theo Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh.
Bác sĩ Malone, chủ tịch và đồng sáng lập của Liên minh các bác sĩ và nhà khoa học y tế quốc tế, cho biết hơn 17,000 bác sĩ và nhà khoa học đã ký một tuyên bố dứt khoát rằng vaccine di truyền cần phải được thu hồi.
Ông nói: “Những vaccine di truyền này không hiệu quả.”
Meiling Lee và Zachary Stieber đóng góp cho bài viết này.
(Nguồn: epochtimesviet.com)