7/ MAHARISHI TẠI KAILAS ( 1912)
Năm 1912,sau khi ông hoàn trả chứng chỉ truyền đạo cho Giáo hội, có vài việc đặc biệt xảy ra. Sundar định vào Tây Tạng bằng một con đường chẳng quen thuộc ngang qua vùng Kailas danh tiếng phía bắc của Garwal, xem như núi Olympus của Ấn độ. Nơi đây tất cả đều vắng vẻ tịch mịch. Ngang qua cao nguyên này, những băng cướp giựt thường chờ sẵn để cướp các đoàn hành hương và những đoàn người Tây Tạng đi buôn từ phố chợ Gianame. Cũng tại đây, người ta thuật lại rằng có thánh nhân đã từ bỏ thế gian để trầm tư và cầu nguyện. Sundar hy vọng ít ra cũng gặp được một vài người trong bọn họ đang khi đi ngang qua đó để vào Tây Tạng.
Vẻ đẹp của thiên nhiên làm rung động tâm hồn ông, nhưng dù là tay leo núi vậm vỡ dẻo dai, thời tiết khắc nghiệt và con đường đèo dốc có thể đánh ngã ông cách dễ dàng. Cuối cùng mệt mỏi vì leo trèo, lê thê gót chân trên mỏm đá lởm chởm và vách đứng cheo leo, mắt không còn thấy xa vì tuyết trắng che phủ chói mắt, ông bị ngã nhào, rớt té và bất tỉnh bao lâu không rõ. Nhưng khi mở mắt ra, Sundar kinh hoàng thấy trước mắt một sinh vật tóc tai bù rối, mặt mày nhăn nheo với bộ áo lông làm bằng da thú màu nâu che thân như một con dã thú. Chỉ khi nghe tiếng nói thì Sundar mới nhận ra là một ông già đặc biệt chưa từng thấy. Sundar còn quá yếu vì lạnh không đủ sức để bò tới trong khi sinh vật đáng tởm đó tiếp tục xông tới gần và cho ông một ít lá cây và ra dấu bảo ăn. Sundar e dè nhai thử, một luồng máu ấm chạy suốt cơ thể lạnh buốt giúp cho ông có sức ngồi dậy và đưa mắt nhìn quanh. Bỗng nhiên sinh vật đó nói làm cho Sundar rất ngỡ ngàng:
“Chúng ta hãy cầu nguyện”
Sundar quỳ xuống bên cạnh vị ẩn tu này, lắng nghe lời cầu nguyện kỳ diệu và được kết luận bằng câu nhân danh Jesus. Sundar vô cùng kinh ngạc vì tình cờ không phải chỉ tìm thấy cái hang của thánh nhân mà còn thật sự khám phá vị ẩn tu đó là một Cơ đốc nhân. Sundar ở lại nhiều ngày trong hang với vị thánh nhân này và khám phá nhiều điều mới lạ qua đời sống ẩn dật và kinh nghiệm xuất thần của ông ta. Nhưng khải tượng được ông ta kể lại xác chứng cho Sundar như đọc đoạn sách Khải Huyền. Thật ra vị thánh nhân này từ chối nhắc lại cuộc sống lạ lùng nhưng một số câu chuyện được người ta kể lại đã được công bố về sau mà không được Sundar xác nhận.
Người ta biết đến vi thánh nhân này qua các truyền thuyết về ông như các vị “Maharishi”. Họ kể rằng ông đã sống tại vùng cao nguyên Kailas này đã được khoảng ba thế kỷ. Ông sinh ra vào thế kỷ 17 tại Alexandria, Ai cập trong một gia đình theo Hồi giáo rất nghiêm khắc. Ðể tìm kiếm sự bình an, ông vào tu viện Dervish nhưng càng học kinh Coran bao nhiêu ông càng không được thỏa mãn với tôn giáo của Mahommed bấy nhiêu. Cuối cùng ông tìm thấy một thánh nhân tên là Yemaus, cháu của thánh St. Francis Xavier, đến từ Ấn độ và đang giảng đạo tại Ai Cập. Nhờ đó ông chấp nhận vào Cơ đốc giáo. Những lời phúc âm trước đây đã từng thách thức Sundar nay được thánh nhân này nhắc lại như : Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng , hãy đến cùng ta” và “ Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài… ”Ông đã đi theo truyền giáo nhưng sau đó từ giã thầy rồi đi về hướng đông. Nhận thấy Ấn độ đầy dẫy tội lỗi và đau thương, khoảng ba trăm năm trước ông đã tìm nơi ẩn dật này trên cao nguyên Kailas và sống cho đến ngày nay.
Ðể chứng minh cho câu chuyện khó tin này, nhà ẩn tu vào trong xó góc của hang trọ kéo ra quyển Kinh Thánh cuộn tròn viết bằng chữ Hy lạp cổ xưa và xác nhận rằng thánh Francis Xavier, một nhà truyền giáo trứ danh của thế kỷ 16 đã từng là chủ nhân của nó trước đây.
Câu chuyện như thế được Sundar kể lại sau chuyến đi về từ Tây Tạng. Sundar xác nhận đã có hai lần thăm Maharish nhưng không có ai khác để nhận ra hang trọ của thánh nhân nằm ở đâu. Mặt khác, có một kỹ sư Hoa kỳ và một giáo sĩ Tin lành xác nhận đã có gặp những vị ẩn tu như ông ta trên dãy núi Kailas, đồng thời những lái buôn người Tây Tạng nói rằng các dân làng của họ cũng nhắc đến các Maharishi này.
8/ HỘI TRUYỀN GIÁO SANNYASI
Trong chuyến truyền giáo tại Benares cho những người hành hương tìm sự xá tội bằng cách tắm tại dòng sông thánh Ganges, Sundar tin chắc rằng có nhiều người chú tâm nghe dù đôi khi gặp ngăn trở bằng bạo lực. Nhân dịp này, có vài người nói rằng họ không đủ lời lẽ để đối đáp cùng ông nhưng trên mạn ngược bên bờ sông có một Sannyasi, một thánh nhân như ông thừa sức để biện luận. Ông tò mò tìm đến. Khi đã gặp nhau rồi, thánh nhân đó trước hết lấy ngón tay che miệng Sundar rồi sau đó để trong miệng mình ngụ ý nói rằng lời nói của hai người như nhau. Mấy người đi theo hết sức ngỡ ngàng. Thánh nhân Sannyasi rao truyền về Chúa Jesus như Sundar đã nói với họ một giờ trước đây. Sundar nghỉ lại một đêm với thánh nhân Sannyasi trong cái chòi tồi tệ bên bờ sông và khám phá ra rằng không phải chỉ có một mình ông mặc áo cà sa đi giảng đạo Chúa tại Ấn độ mà Ðức Chúa Trời đã dùng đời sống của những thánh nhân như Sannyasi rao truyền danh Chúa.
Trên toàn quốc có nhiều thánh nhân như Sannyasi, làm môn đồ của Chúa Jesus một cách kín đáo. Họ xác nhận chính thánh Thô-ma (sứ đồ của Chúa Jesus) vào thế kỷ thứ nhất đã xây dựng đời sống đức tin cho họ và ở rải rác khắp nơi có khoảng giữa 20,000 và 40,000 môn đệ.
Sundar cũng có dự các thánh lễ với họ tại một nơi mà bên ngoài xem như là một miếu thờ Ấn độ giáo. Bên trong các nghi lễ Cơ đốc như báp têm, tiệc thánh, thánh ca bằng các bài thơ Ấn độ và thờ phượng thì hoàn toàn theo lối Ðông Phương. Ðặc biệt khi cầu nguyện, họ nằm mọp xuống trên sàn nhà trước nơi thánh, nơi mà Ấn độ giáo thường để tượng thần.
Sundar cố gắng thuyết phục họ nên tuyên bố công khai họ là Cơ đốc nhân. Họ đoan chắc với ông rằng họ đã từng làm việc cách hữu hiệu hơn khi họ là môn đồ bí mật, được người ta chấp nhận như là các Sadhu bình thường nhưng lôi kéo tâm hồn người ta đến với đức tin thật trong tư thế sẵn sàng chờ ngày khi tình thế cho phép môn đệ có thể lộ diện công khai.
Nhiều người khác, ngoài Sundar, cũng có gặp hội truyền giáo Sannyasi. William Carrey, nhà truyền giáo vĩ đại nhất hậu bán thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 đầu tiên xây dựng công việc truyền giáo Tin lành tại Bengal có xác nhận cũng có gặp hội truyền giáo Sannyasi.