Những Sai Trật Nguy Hiểm Và Hủy Diệt Trong Lý Luận Về Đổi Giới Tính Của Giới Trí Thức “Phóng Túng”

Share

Hầu hết mọi người cảm thấy bị đe dọa bởi sự định nghĩa lại về giới tính của thời hậu hiện đại. Linh cảm của họ thật đúng! Những cuộc bỏ phiếu “phản kháng” trong năm 2016 tại Anh và Mỹ chứa đựng nhiều điều phức tạp, nhưng một trong những tính chất của chúng là bác bỏ thế giới và trật tự xã hội theo lối sống mặc dù là “phóng túng” nhưng lại có bản chất “đàn áp”. Dù phong trào “phóng túng” (liberalism) cho rằng nó là thế giới quan duy nhất, phong trào này bị bác bỏ vì nó không phục vụ cho đại đa số quần chúng. Cũng như chủ thuyết kinh tế phóng túng đang gặp phải, những giả định đạo đức và văn hóa của phong trào phóng túng đang bị tra xét – theo một cách mà một nhà tư tưởng phóng túng Richard Rorty đã tiên tri cách đây 20 năm.

Phản Ứng Dội Ngược Lại Chống Chủ Nghĩa Phóng Túng

Ở các nước Âu Mỹ, giới chủ trương phóng túng (liberal movement) đã quá dễ dàng mà tự cho rằng những đặc tính thông thường như: là người da trắng, phái nam và thuộc “hệ” phái tính bình thường (heterosexual, bản tính tình dục là giữa nam và nữ) là nguyên cớ của những sự “xét lại” thay vì xem chúng là những điều kiện mà những người này không thể trở nên khác hơn được. Thế nên giới chủ trương phóng túng đừng nên kinh ngạc nếu bây giờ họ phải đối đầu với sự phản ứng quật ngược lại từ những người bình thường đó – là những người mà họ cho là không thể quản trị được dòng vận hành của xã hội. Những người bình thường này nay đang bắt đầu nhìn đến giới chủ trương phóng túng như là những mối đe dọa cho lai lịch nhân cách của họ.

“Phản ứng quật lại trắng” (whitelash) thường xảy ra trong những dạng hơi cực đoan từ có thành kiến chủng tộc, chống phụ nữ, ghét người Hồi Giáo, cho đến bài Do Thái và vv… Nhưng nhìn chung lại thì đó là một phản ứng chống lại khuynh hướng của giới phóng túng luôn bị ám ảnh về những vấn đề ưu tiên của họ đến nỗi gạt bỏ những gì mà quần chúng rất cần: gia đình, cộng đồng, sự bảo đảm việc làm cùng với cảm quan an toàn về lai lịch văn hóa. Lai lịch này là những di sản quý báu đối với giới bình dân và thường là chìa khóa giúp họ tồn tại. Đã quá đủ rồi và đã quá thường xuyên xảy ra việc giới phóng túng dường như tỏ ra rằng họ chằng quan tâm đến mà còn có nhiều khi coi khinh những điều này.

Hơn thế nữa, có lẽ là giới phóng túng đã giả định một cách quá dễ dàng rằng xã hội đã có một sự đồng thuận về quyền phá thai, nan y tử quyền, hôn nhân đồng tính, sự chuyển đổi giới tính, vấn đề kỳ thị phụ nữ và những nhóm sắc tộc thiểu số. Trong thực tế, một đa số lớn trong quần chúng dù có ý bác bỏ hoặc là nghi ngờ về những vấn đề này nhưng lại cảm thấy rằng họ không còn được chấp nhận hay cho phép để nói ra suy nghĩ như vậy của họ. Quan điểm thật của họ xuất hiện theo cách ‘dấu tên’ như được thấy qua kỳ bỏ phiếu rút ra khỏi Liên Âu của Anh Quốc và kỳ bầu cử cho ông Donald Trump làm tổng thống Hoa Kỳ.

Khi phải đối diện với hai kết quả bỏ phiếu này người ta có thể cảm nhận rõ có hai phản ứng đối nghịch nhau. Một mặt thì có người sợ rằng sẽ có một sự độc tài do khối đa số áp đặt lên và do đó mà bắt đầu có những lý lẽ mới để nghi ngờ về bản chất tiêu biểu của nền dân chủ trong sáng. Trong một mặt khác, có một sự cảm nhận rằng những người bỏ phiếu có nắm lấy một số lẽ thật. Những lá phiếu của kỳ bầu cử năm ngoái cho thấy một nhận định chung và sơ khởi rằng phong trào phóng túng đã trở nên một kẻ độc tài toàn cầu, trịch thượng và bạo động, và rằng nền kinh tế và văn hóa phóng túng có thể kết lại làm một (qua các chính quyền Blair và Cameron và dòng Clinton). Và với cái “kết lại làm một” này, người ta có thể làm biến thể dạng hay cuối cùng từ bỏ những chuẩn mực Cơ Đốc về tình dục, giới tính một cách quá dễ dàng mà chẳng cần phải tranh luận nghiêm túc. Những cảm nhận theo bản năng này coi vậy mà có tính thuyết phục tri thức hơn những kết luận nhạt nhẽo của hàng ngàn nhà hàn lâm hậu hiện đại.

Điểm này có thể được minh họa rõ qua một cuộc đối thoại trên điện thoại trong một chương trình trực thoại Radio. Khi một nhà khoa bảng đã nói đúng rằng “chủng tộc” chỉ là một định nghĩa được dựng nên theo tư tưởng Châu Âu thì có một người nghe đã hỏi lại, tại sao nhà khoa bảng này muốn đặt hai chữ “lịch sử người da đen” và “nghiên cứu về người da đen” tách ra riêng lẻ với nhau? Phải chăng làm như vậy chỉ củng cố thêm ảo tưởng trong lý thuyết của ông về lịch sử của người da đen. Nhà khoa bảng không thể đưa ra một câu trả lời nghiêm chỉnh. Ở đây cho thấy sự mù mờ về biện chứng của nhiều kẻ ngày nay có danh là trí thức.

Những Điều Họ Tự Cho Là Chân Lý: Giới Tính Không Dựa Trên Thân Thể Sinh Lý

Chúng ta không bác bỏ rằng có một số ít người ở trong tình trạng không thể xác định về thân thể được. Thí dụ, có những người có thân thể là nam nhưng bộ phận sinh dục là nữ hoặc thân thể là nữ nhưng bộ phận sinh dục là nam. Họ xứng đáng được chúng ta giúp họ tiến đến một giải pháp riêng cho đời sống của họ. Tôi cũng không bác bỏ rằng có nhiều người khác đang trong tình trạng tâm lý không dò ra và giải quyết được. Ngay từ tuổi thơ ấu, dù không gặp phải những biến cố tâm sinh lý như phần lớn những người đồng tính, họ đã có bản tính trái nghịch với phái tính của bộ phận sinh dục của mình, và do đó tâm lý của họ không thể hoà hợp với thân thể của mình. Có lẽ là theo một cách cực đoan thì phẩu thuật đổi giống là giải pháp duy nhất cho họ chăng?

Nhưng nhiều người đã nhận xét đúng là sự ám ảnh về thay đổi giới tính trong phong trào phóng túng đã đi quá xa ra khỏi mức độ giúp đỡ cho thiểu số người có nan đề xác định giới tính. Ý tưởng giúp đỡ ban đầu đã trở nên một phong trào muốn thay đổi quan điểm của xã hội chúng ta về giới tính. Những định kiến của phong trào trở nên nghịch thường với quần chúng, những kết luận của phong trào là không thể chấp nhận được với họ, và rõ ràng nhất là sự kết án những gì là bình thường mà quần chúng thấy rõ là một phần lai lịch con người của họ.

Nói chung, đối với phong trào phóng túng (dù là trong những dạng hung hăng hay khôn khéo), vấn đề không phải là “sự bảo thủ” (conservatism) chống lại “sự tiến triển” (progressivism). Vấn đề là những cái mới lạ nền tảng của chủ nghĩa phóng túng bám vào một triết lý theo chủ nghĩa cá nhân thực nghiệm. Nó chỉ chấp nhận những ‘sự thực thấy được’ và ‘quyền chọn lựa’ là chân lý. Bác bỏ triết lý này không làm cho quý vị trở nên một người ‘phản động.’

Thế giới quan phóng túng hiện nay, thật ra là chịu ảnh hưởng đặc biệt của Judith Butler. Judith Butler mạnh mẽ phân rẻ cái gọi là ‘sự thực thấy được’ về tình dục thể lý ra khỏi cấu trúc văn hóa về giới tính. Những gì thấy được về thân thể có tính dục (nam hay nữ) để từ đó phân biệt giới tính không còn được chấp nhận là sự bày tỏ của một thực thể kết hợp tâm linh và thân thể. Những gì thấy được về thân thể có tính dục chỉ là những tình trạng vật lý vô nghĩa của thân thể. Cái ở trong tâm trí và tâm hồn mới là cái xác định tính dục! Giới tính theo định nghĩa của văn hóa của con người chỉ là một sự tưởng tượng. Những lý luận như vậy, theo thời gian và theo đà phát triển cực nhanh thành một dòng tư duy chảy cuộn chung với hai dòng tư duy khác: (1) Dòng tư duy cho rằng con người có thể và phải tự làm chủ, biến đổi vận mệnh của mình (chủ nghĩa nhân bản hậu hiện đại – postmodern humanism), và (2) Dòng tư duy vô thần chủ trương bác bỏ niềm tin và tôn giáo (atheism bao gồm chủ nghĩa cộng sản).

Sự vận hành cộng hợp của ba dòng tư duy này đã tạo nên một sức mạnh cho chủ nghĩa phóng túng (liberalism) và sản phẩm của nó là chủ nghĩa đổi giới tính (transgenderism). Sản phẩm này trở thành một “thứ lẽ thật tôn giáo và chính trị” có sức thu hút, vừa thuyết phục giới trí thức thời thượng, các đảng phái và tổ chức chính trị, và các chính quyền mà những giới này ủng hộ triệt để. Thậm chí nhiều giáo hội, hệ phái và tổ chức cơ đốc cũng thuận theo thời cuộc văn hóa và chính trị mà tìm mọi cách giải thích Kinh Thánh và lẽ đạo xuôi theo phong trào đồng tính! Từ đó trở đi, phong trào phóng túng Chỉ trong vòng thập niên vừa qua, hầu hết các nước Châu Âu và ngay cả Hoa Kỳ đã làm nên những đạo luật đồng hóa gộp chung lại hôn nhân truyền thống giữa nam nữ và hôn nhân đồng tính. Những đạo luật này được soạn ra không phải là để cho xã hội có sự dung hợp những người đồng tính nhưng là để thay đổi mạch sống của xã hội theo đường hướng của phong trào phóng túng và chủ nghĩa chuyển đổi giới tính. Sau những đạo luật này là những đợt tấn công mới của những luật lệ mới nhắm vào mục đích xóa bỏ sự phân biệt giới tính nam và nữ.

Vào tháng 5/2016, kết quả của cuộc trưng cầu dân ý tại Ái-nhĩ-lan là chấp thuận đổi định nghĩa hôn nhân và công nhận hôn nhân đồng tính và hôn nhân nam nữ là như nhau. Ngày 26/6/2015 Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, với 5 thành viên là Cơ Đốc Nhân, đã phán quyết công nhận Hôn Nhân Đồng Tính với 5 phiếu thuận và 4 phiếu chống. Đây không phải là một Biến cố này không chỉ là một biến cố thay đổi sâu xa hiến pháp quốc gia và xã hội, nhưng hơn thế nữa đó là một kết quả xuống dốc thuộc linh của đất nước Hoa Kỳ, một đất nước được sinh ra từ những tín hữu sẵn sàng trả giá bằng sinh mạng của mình để có thể được tự do thờ phượng Đức Chúa Trời, và cũng là một đất nước duy nhất in trên tờ giấy bạc của họ dòng chữ “In God We Trust – Chúng Ta Tin Cậy Chúa.” Vào tháng 5-2016 tại Hoa Kỳ, chính phủ Obama gửi sắc lệnh đến tất cả các trường công trong nước, ra lệnh phải mở mọi khu phòng tắm và phòng thay đồ cho tất cả trẻ em không phân biệt phái tính. Nếu không sẽ bị đưa ra tòa vì tội kỳ thị phái tính và sẽ bị mất phần ngân quỹ của chính quyền Liên Bang cung cấp (Joy Pullman, The Federalist, 13 May 2016). Tại Úc nhiều nhà trẻ đã dạy trẻ em không dùng chữ con trai (boy) hay con gái (girl) mà dùng chữ “person” (người). Cũng ở Úc, tiểu bang Tasmania đã bỏ dùng chữ “husband” (chồng) và “wife” (vợ) với giải thích rằng để tránh kỳ thị người đồng tính! Tại các nước Âu Mỹ và Úc, nhiều người đã buộc phải nghĩ việc, từ chức hay bị sa thải vv… vì đã nói lên quan điểm không đồng ý hay chống lại vấn đề hôn nhân đồng tính và đổi giới tính. Gần đây nhất, chính quyền của một tiểu bang ở Úc sắp trình một dự luật để cho một cá nhân có quyền tự do chọn giới tính của mình mặc dù thân thể của người đó là nam hay là nữ!

Tuy nhiên, khi đi vào những phân giải phức tạp của lý thuyết về văn hóa, ngay cả những người trong phái nữ quyền, vốn luôn dễ dàng ủng hộ phong trào phóng túng, đã đặt câu hỏi có thực là tính thiên nhiên và văn hóa có thể bị tách ra khỏi nhau một cách quá dễ dàng như vậy không? Trong thực tế, phong trào phóng túng không thể biện chứng cho sự bác bỏ vô số kinh nghiệm của con người chúng ta. Thay vì biện chứng, họ trơ trẽn làm xáo trộn thiên nhiên và văn hóa. Họ cho rằng những gì “ngoại lệ” không phải là giới tính nam hay nữ rõ ràng và đặc tính tính dục kết hợp nam với nữ lại là tự nhiên và không thể bàn thảo được cho dù những điều này có những biểu hiện của bản chất con người. Kế tiếp, họ cho rằng điều cá nhân ưa thích chọn lựa (văn hóa) là điều “hợp pháp”

Chủ Nghĩa Phóng Túng Làm Tổn Thương Người Nghèo Khó

Vì vậy, chủ nghĩa phóng túng thúc đẩy nên những cố gắng phá tan vị trí tự nhiên của tính tình dục nam-nữ — tới mức mà họ xem những người không chấp nhận những hành động đồng tính luyến ái hay hôn nhân đồng tính (như là như hôn nhân nam nữ) là những “tội phạm” (criminal). Một điều đáng chú ý là chủ nghĩa phóng túng, do bản chất là “chọn lựa” và “sống theo cái tôi” nên hòa hiệp dễ dàng với chủ nghĩa tư bản (capitalism) cũng dựa trên bản chất “chọn lựa” và “tiêu thụ”. Nên sau cùng, chủ nghĩa phóng túng, sau khi hít thở bầu không khí của xã hội tư bản và lối sống cá nhân (individualism), đã định nghĩa con người một cách sơ sài như là một loài sở hữu tư sản, tự yêu chính mình và tự sở hữu chính mình, và bản chất thật của con người là “chọn lựa” và “tiêu dùng” cho chính mình. Thần học gia Aquinas cho rằng định hướng tự nhiên của chúng ta là hướng đến những gì khác ở bên ngoài chúng ta. Đây là nền tảng cho bản thể của chúng ta. Chủ nghĩa phóng túng, ngược lại, bác bỏ sự quan trọng của những mối quan hệ. Bởi đó nó khuyến khích sự tháo rã cộng đồng, đặc tính địa phương và vẻ đẹp của bản thể tự nhiên – và bởi đó mà nó, dù vô tình hay cố ý, vận hành để gỡ bỏ đi hôn nhân và gia đình.

Và rồi, theo lẽ tự nhiên của chủ nghĩa tư bản, tất cả những diễn biến phát sinh từ sự vận hành của chủ nghĩa phóng túng, đều là những cơ hội để làm ra tiền. Sống dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa phóng túng là sống với cảm xúc. Cảm xúc thay đổi làm một người có cái nhìn thay đổi về lai lịch của chính mình và thay đổi sự ham thích của mình – trong đó có sự thay đổi về nguồn căn giới tính và tình dục – khiến người ta càng ngày càng đòi hỏi tiêu thụ (hay tìm hưởng thụ) thêm nữa và thêm nữa. Đây là điều phải nằm trong nghị trình của giới tư bản. Trong cái nhìn về thị trường của giới tư bản thì gia đình là một đối tượng thương mại. Nhưng đây không phải là đối tượng thương mại duy nhất. Tư bản làm ra tiền từ cả hai lãnh vực “bình thường” (sống theo phong trào phúng túng) và “bất thường” (sống theo bản chất tự nhiên) và làm ra tiền nhiều hơn nữa khi hai lãnh vực này tranh chiến với nhau. Nhưng với xu thế trở thành chính mạch của phong trào phóng túng và đổi giới tính thì trong định hướng của giới tư bản, lợi nhuận sẽ gia tăng từ sự hạ giảm vị thế của giới có định hướng tình dục là nam-nữ để đi đến vị thế của giới “sống theo sở thích chọn lựa lối sống và giới tính.” Cho nên không có gì là lạ khi mà ở Âu Mỹ và Úc, hầu hết các ngân hàng lớn, công ty lớn vv… đều bảo trợ mạnh cả về tài chánh cho phong trào đồng tính và đổi giới tính.

Thành phần dân túy hay bình dân (đối lại với giới giàu và cực phóng túng) trong vòng giới Brexiteers (người Anh chủ trương ra khỏi Liên Âu) và giới ủng hộ ông Trump có vẻ nhìn thấy được điều này. Họ nhận thức rằng khi có sự hạ thấp gia đình, mất an ninh về việc làm và nguy cơ tan rả một cộng đồng địa phương thì những vấn đề như là “cộng đồng thế giới” theo kiểu tư bản và phóng túng, và môi trường sinh thái an toàn vv… không phải là thứ quan yếu cho đời sống thực tế và tương lai lâu dài của họ. Vì như RR Reno và những người viết khác đã chỉ ra rất đơn giản là dân nghèo không có khả năng để “chi trả” cho những thí nghiệm tình dục, ma túy và lối sống mà chỉ có những giới trung lưu hay giàu có mới có thể “chi trả” nổi. Thế nên kết quả của chủ nghĩa phóng túng tình dục và sự băng hoại của hôn nhân như là một sự phổ thông cho giới lao động luôn luôn đi đến kết quả là những phụ nữ sống đơn chiếc với các con thơ của họ và những người nam trẻ tuổi (dưới áp lực của truyền thống sống làm “hiệp sĩ” và đặt phẩm giá của người đàn ông vào vị trí phải là chủ và gánh vác trách nhiệm gia đình) bị dẫn đến chỗ tự tử.

Sai Trật Nguy Hiểm Và Hủy Diệt Trong Lãnh Vực Tri Thức.

Chúng ta cần nhắc lại với nhau là có một số người, một thiểu số rất nhỏ, thật sự có vấn đề tâm sinh lý khác biệt với thân thể phái tính của họ. Họ cần được lắng nghe – và chủ nghĩa phóng túng chắc chắn trong một mức độ nào đó đã giúp chúng ta đối xử với họ với sự hiểu biết và lòng thương xót.

Nhưng chúng ta phải xem xét để thấy rõ rằng tình trạng tâm lý không thể chữa lành được để hòa hợp với thân thể có giới tính tự nhiên của một người là một ngoại lệ rất hiếm có. Theo lẽ tự nhiên, chúng ta phải giả định rằng giới tính thật sự là giới tính phát triển theo sinh lý tình dục của thân thể. Nói một cách đơn giản, một người có thân thể và bộ phận sinh dục là nam/nữ thì rõ ràng người đó là nam/nữ. Nếu không, chúng ta đang chủ trương một định nghĩa về con người theo một triết lý lưỡng cực quái đản nhất vì nó chủ trương tách rời tâm hồn với thân thể hay linh hồn với thân thể.

Theo tiêu chuẩn tâm sinh lý, chúng ta sẽ nhận diện giới tính của mình theo những dấu chỉ mà thân thể chúng ta bày tỏ ra và chúng sẽ vận hành làm chúng ta thu hút người khác và bị thu hút bởi người khác là người có thân thể có giới tính khác với giới tính của chúng ta. Nhưng phong trào phóng túng cho rằng đây là chủ nghĩa sống theo bản tính sẳn có khiến làm cho con người bị giới hạn tự do. Với chủ nghĩa phóng túng, cảm xúc bên trong về nguồn căn (identity) và sự thu hút tình dục tự do không phân biệt là tình dục đồng tính hay tình dục nam-nữ làm cho một người có thể nói rằng tôi không có một thân thể “đúng” hoặc tôi có quyền chọn loại thân thể mà tôi “thật” muốn có.

Từ chỗ này chúng ta thấy có hai điểm tranh luận về chủ nghĩa đổi giới tính. Thứ nhất, chúng ta không nói về sự khám phá ra một tình trạng của một thiểu số cần được nhận biết và giải thoát nhưng là về một sự mở rộng để đặt sự đồng tính và đổi giới tính thành một điều tự nhiên. Một khi mà chúng ta cho rằng sự thu hút đến với người cùng giới tính cũng giống như là sự thu hút đến với người khác giới tính, chúng ta đã xem sự khác biệt về giới tính là một điều không đáng kể và không quan trọng.

Thứ hai, sự đối nghịch mà chúng ta đã thấy ở trên vẫn tiếp tục vận hành: “giới tính có thể chuyển đổi” chỉ là một vấn đề chọn lựa của cá nhân nghịch lại với sự thực không chối cãi được là giới tính không do sự chọn lựa của cá nhân con người và nó hiện hữu trong một tâm hồn không bệnh hoạn.

Phong trào đổi giới tính cho rằng tâm lý nghịch lại với thân thể chứng tỏ là có một biến đổi ở bản chất “thần kinh” (neurological) và do đó khi một người có thân thể là nam nhưng cảm thấy mình là nữ thì sự cảm thấy đó có giá trị vì nó có tính chất “thần kinh” mà “thần kinh” cũng là một nhân tố quyết định về thân thể. Nhưng cho đến nay không có một bằng chứng nào hổ trợ cho lối biện luận này. Hơn nữa, nếu chấp nhận rằng một sự rối loạn thần kinh xác định một sự rối loạn về thân thể — thì điều này vẫn không chứng tỏ được điều nào là điều khởi đầu giới tính. Sự hình thành bộ não? Trừ khi có thể nhận dạng ra một nguồn gốc thể lý rõ ràng về sự di truyền của một sự bất thường của chức năng bộ não, thật là khó mà nói rằng chuyển đổi giới tính có nguyên nhân tận cùng đến từ vấn đề thần kinh.

Ngay cả khi chuyển đổi giới tính được kể là do sự chọn lựa thì người ta có quyền giả sử rằng chúng ta phải khuyến khích người ta ở trong cái vỏ thân thể và tâm lý mà họ sinh ra trong đó, bởi vì chọn lựa đó sẽ làm tiến triển hạnh phúc và sự tồn tại của loài người – hay sẽ ngay trong hiện tại làm tiếp tục di sản tư tưởng Châu Âu về con người. Vậy mà nay lại có những quan điểm và thực hành đòi hỏi chính thức hóa tình trạng bảo hòa làm trung dung giới tính (con người ở trong tình trạng vừa có thể trở thành nam vừa có thể trở thành nữ), và để cho con trẻ có thể quyết định giới tính của chúng là nam hay nữ. Nhưng bằng cách nào đây? Theo sự chỉ dẫn của quan điểm bệnh hoạn này? Và bằng những thói quen nếp sống nào?

Đây là quan điểm bỏ lơ những bằng chứng áp đảo – mà chúng ta đều quen thuộc (không cần phải dựa vào những thí nghiệm hay thống kê đáng nghi ngờ!) – cho thấy những phong cách và thái độ của giới tính được cơ thể hình thành trong các trẻ sơ sinh và ấu nhi. Hiện nay ở nhiều nơi trong các nước Âu Mỹ và Úc, nhiều nhà trẻ đã dạy trẻ em không dùng chữ con trai (boy) hay con gái (girl) mà dùng chữ “person” (người). Nhiều trường học trung học công đã đưa vào các chương trình giáo dục giới tính trong nhiều dạng khác nhau, dạy cho các em thanh thiếu niên rằng con người sinh ra với một ý chí và cảm xúc tự quyết định phái tính của mình, và các em không nên để cho thân thể sinh lý của mình cản trở quyền tự quyết như vậy của mình. Cách và chương trình giáo dục áp đặt lên con trẻ như vậy là sự “độc tài” và áp chế của chủ nghĩa phóng túng. Hầu hết mọi người đều rất đúng khi cho rằng những kiểu giáo dục như vậy thật là hắc ám. Những người chủ trương như vậy lại thuộc về giới trí thức, và như thế giới khoa bảng phóng túng thật là những người điên!

Và với tư duy nói rằng không có sự khác biệt giới tính của thân thể thì tất nhiên là sẽ không có sự thúc giục suy tưởng và ý thức về giới tính. Đây là điểm rất đơn giản mà những nhà tư tưởng trường phái Butlerian đã quá ngây thơ bỏ qua. Thật là nguy hiểm khi đề xuất rằng mỗi một lời công bố rằng tôi đang ở trong một thân thể sai trật với ý tưởng của tôi (về giới tính của tôi) đòi hỏi những chi tiêu tốn kém tiêu hao tài nguyên xã hội vốn đã ít ỏi. Nếu chúng ta xét đến nguồn căn giới tính theo cách dễ dàng gạt giới tính thiên nhiên ra ngoài, chúng ta sẽ đánh mất nền tảng hiểu biết về thế nào là bản chất của con người.

Có phải là một cổ vũ cho một sự bao dung mới?

Ngày nay phong trào phúng túng cùng sản phẩm của nó là chủ nghĩa đổi giới tính còn ít bao dung hơn trong quá khứ rất nhiều. Với trường hợp đồng tính luyến ái, những văn hóa cũ của những thế hệ trước đây còn cho phép các trẻ gái có thể làm con trai – và ngược lại nhưng ít hơn thế. Những tấn công vào người đồng tính còn dựa trên sự hiểu biết là có hai giới tính khác nhau là nam và nữ.

Nhưng so sánh với những gì mà chủ nghĩa chuyển đổi giới tính chủ trương hiện nay người ta có thể thấy một nỗ lực xóa bỏ giới tính. Theo lẽ tự nhiên, nổ lực này nhắm đến những giới thiếu niên và trẻ em. Để đối đáp với sự lo sợ của chúng ta về vấn đề này, phong trào phóng túng ngụy trang những nổ lực giáo dục tẩy nảo bằng vỏ ngoài phòng chống những lạm dụng hay hà hiếp trẻ em. Đây thật là một kiểu giả hình. Nhưng điều nguy hiểm là những nỗ lực này đang được ủng hộ tài chánh của kỹ nghệ âm nhạc thương mại.

Những gì sẽ đi theo sau chuyển đổi giới tính? Chắc chắn là không còn giới tính nữa, chỉ còn một cá nhân đơn độc, lang thang và vướng vào bẫy của một mê trận của những con đường dẫn đến những ngã ba bất tận. Theo sau sự bác bỏ đặc tính tình dục tự nhiên – là đặc tính xác định giới tính là nam hay nữ — để chuyển đổi giới tính để thỏa mãn cái tôi, là sự tiêu hủy của tình dục và quan hệ hôn nhân giữa người nam và người nữ. Tất cả những chính quyền tự quản và không độc tài của con người là được xây dựng trên mối quan hệ nam và nữ, như Ivan Illich cho thấy. Mối quan hệ đó cũng là nguồn cung cấp những thuyết minh mà dựa trên đó hầu hết các tôn giáo được dựng lên từ Ấn Độ Giáo cho đến các sách văn thơ Khôn Ngoan của Kinh Thánh (Wisdom literature of the Bible).

Với những sự tan biến đi như trên, sự sinh sản của con người càng lúc càng bị lấy ra khỏi bầu không khí tự do và quan hệ yêu thương để trao cho những thế lực thị trường và những thế lực kiểm soát khoa học. Những cá nhân sống cô lập vẫn muốn có con trẻ. Họ sẽ trở nên những “quyền lợi” của cả giới thương mại và giới chính quyền là nơi sẽ cung cấp cho họ những phương tiện nhân tạo để “làm” ra con trẻ và hai giới này sẽ tìm mọi cách để ảnh hưởng và kiểm soát tiến trình và kết quả của việc “sinh con trẻ nhân tạo.” Đây là điều mà tác giả Aldous Huxley tiên đoán trong cuốn sách Thế Giới Mới Can Đảm (Brave New World),

Cho nên chẳng đáng ngạc nhiên khi mà đa số quần chúng cảm thấy những sự đe dọa – bởi những ám ảnh đổi giới tính trong phong trào phóng túng – trên những gì họ hiểu, trên nếp sống và trên tương lai của con cháu của họ. Có lẽ là họ mường tượng ra được hướng đi của chủ nghĩa hậu hiện đại (post-humanist) sẽ lôi họ đi đến chỗ tệ hại như thế nào. Giờ đây quần chúng bình dân với cả hai thành phần ‘không phải là cơ đốc nhân’ và ‘cơ đốc nhân ly khai,’ nói đến những di sản Tây Phương và Cơ Đốc một cách cứng cõi và thuần thành hơn cả những hội thánh chính mạch.

Cái “tôn giáo chuyển đổi giới tính’ dù chỉ là một dòng biểu hiện của một chủ nghĩa phóng túng, nhưng nó là một biểu tượng cấp cao của chủ nghĩa này. Nó có thể là một trong những điều kích động lên một tổng hợp những phản ứng của quần chúng mà không thể ngờ được. Giống như nhiều người, tôi không thấy nó có giá trị lý luận gì. Nhưng quần chúng có thể cảm nhận ra rằng, giống như nhiều trường hợp đã xảy ra trước đây, mọi sự đã đi quá xa và chúng hết sức là sai lầm và nguy hại.

 

DTCMS và Phạm Phi Phi

Bài bình luận này được tổng hợp, chủ yếu dựa vào John Milbank, Long read: What liberal intellectuals get wrong about transgenderism, 13 Jan 2017. Giáo sư John Milbank là một thần học gia Anh Giáo và Chủ Tịch Trung Tâm Triết Học và Thần Học của Viện Đại Học Nottingham. Người viết cố gắng chuyển ngữ những trình bày của ông. Rất mong được các bạn đọc giúp đỡ góp ý cho những từ chuyên môn mà người dịch không thể dịch sát nghĩa.

Các tài liệu khác:

 

Bài Viết Chọn Lọc

Bài Viết Được Quan Tâm

Bài Viết Liên Quan