Enoch Wang là một trong những lãnh đạo phong trào Cứu-thế-nhân phát sinh từ lời dạy của Watchman Nee’s. Ngày nay con số lên đến hàng triệu tín đồ khắp Trung Hoa. Brother Enoch đã ở 16 trong số 20 năm tù cuối vì cớ tin lành. Chỉ sau vài tháng sau cuộc phỏng vấn này, ông lại bị bắt. Nhà lãnh đạo nồng cốt hội thánh Trung Hoa này nói về phong trào Trở Lại Giê-ru-sa-lem mang ý nghĩa thế nào cho ông và chia xẻ lời chứng cá nhân lạ lùng đuợc biết rõ và chứng thực của nhiều lãnh đạo hội thánh tại Trung Hoa.
Tôi trở thành Cứu-thế-nhân lần đầu năm 1969 – trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá – khi tôi là một lãnh đạo Hồng Vệ Quân Cộng Sản. Đức tin nơi Chúa của tôi rất mơ hồ trong năm đầu. Năm 1970 tôi thực sự trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản, mặc dù tôi vẫn là tín đồ Đấng Christ! Chẳng bao lâu tôi được thăng chức vào hàng lãnh đạo Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, và năm 1972 tôi được giao làm công tác trong xưởng vũ khí Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân. Mãi đến năm 1973 tôi mới thực sự nghiêm trọng phục vụ Chúa Giê-xu.
Tôi bị tống tù lần đầu năm 1982 đến 1994 vì đức tin của tôi nơi Chúa. Họ ghét sự kiện một Hồng Vệ Quân vô thần và một lãnh đạo Đoàn Thanh Niên Cộng Sản bây giờ lại làm mục sư Cứu-thế-giáo! Suốt những năm này họ cố hạ gục và khiến tôi xoay bỏ Chúa, nhưng bởi ân sủng Chúa họ không thể lấy đi của cầm trong lòng tôi.
Khi tôi bị bắt, con gái nhỏ tôi chỉ mới ba tuổi. Thật đau đớn phải bị chia cắt khỏi vợ và con tôi, nhưng tôi hy vọng những Cứu-thế-nhân địa phương sẽ chăm sóc họ khi tôi vắng mặt. Chính quyền biết điều này, nên họ quyết định canh chừng gia đình tôi để xem gia đình tôi có nhận được tiếp trợ từ bên ngoài không. Tôi bị kết án chống phá cách mạng và phản quốc – là những tội ác nặng nhất ở Trung Hoa. Bất cứ ai bị khám phá đang giúp đỡ cho gia đình kẻ phản cách mạng đều bị kết án cùng tội danh, nên sự sợ hãi hình phạt khiến anh chị em Cứu-thế-nhân không thể giúp gì được gia đình tôi.
Chúng tôi sống ở nông thôn nhưng vợ tôi không biết cách trồng trọt hay gặt hái mùa màng, nên chẳng bao lâu gia đình tôi lâm cảnh chết đói và trải qua thời gian cùng khốn không thể tin được. Trong mùa hè đầu tiên, vợ tôi thử gặt hái bắp trong đồng bắp chúng tôi khi con gái tôi ở nhà học cách nấu ăn để giúp mẹ! Con bé thậm chí học cách nhúm lửa và nấu nước sôi trụng bún, cũng như cách nấu những bữa ăn giản dị.
Áp lực trên con gái tôi thật căng thẳng. Không một đứa trẻ nào phải từng đối diện với kiểu sống như con gái tôi, nhưng Chúa đã giúp họ và hôm nay con gái tôi là một cô gái trẻ đẹp phục vụ Chúa với hết cả tấm lòng.
Sau khi tôi bị chuyển đến trại tù khổ sai lao động thuộc tỉnh khác, vợ và con tôi cũng di chuyển đến thị xã đó để họ có thể tiếp tục thăm nuôi tôi. Trong nhiều năm vợ yêu dấu của tôi phải một mình nuôi con, không một thông công nào với Cứu-thế-nhân, không chồng cũng không tiền bạc. Đôi lúc vợ con tôi phải lục bới thùng rác tìm thức ăn vụn để ăn hoặc một vài thứ họ có thể bán ở chợ kiếm vài xu. Lại có những lúc khác vợ con tôi buộc phải đi ăn xin. Một lần kia, khi vợ tôi tuyệt vọng nhất, Chúa cho cô khải tượng về thiên đàng để khích lệ đức tin cô và giúp cô tiếp tục sống.
Nhiều Cứu-thế-nhân trên thế giới cầu nguyện cho các mục sư ở Trung Hoa khi họ bị tống tù, và chúng tôi rất cám ơn sâu sắc điều này. Tuy nhiên, xin hãy nhớ cũng cầu nguyện cho gia đình các mục sư đó, vì lắm khi hoạn nạn của gia đình họ còn tệ hại hơn những người trong tù. Xét cho cùng, ít nhất tôi cũng có được vài bữa cơm khô mỗi ngày.
Các cuộc thăm nuôi từ gia đình tôi thật là những kinh nghiệm cay đắng ngọt bùi. Vợ con tôi không bao giờ phàn nàn về cuộc sống họ, nhưng thân thể gầy guộc thiếu dinh dưỡng của họ nói lên tất cả sự tranh đấu tuyệt vọng của họ. Tôi khao khát gặp vợ con và rất được khích lệ khi vợ con đến thăm. Nhưng nỗi đau vì biết những gì vợ con đang trải qua là dạng tra tấn tàn tệ nhất mà chính quyền có thể gây cho tôi.
Con gái tôi không được đi học vì không có tiền mua sách vở và đồng phục. Thêm nữa, con cái của “kẻ chống phá cách mạng” bị nhạo báng và hà hiếp bởi giáo viên và học sinh. Từ khi tôi được thả tù, các tín đồ trong hội thánh tôi hợp lại gửi con gái tôi vào đại học để học rút lại những năm con bé phải bỏ học. Chúa giúp con bé và nó tốt nghiệp năm nay.
Khi tôi được thả tù năm 1994, tôi nghĩ mình sẽ được đoàn tụ vui vẻ nhưng tôi không hiểu hết những gì vợ và con gái đã trải qua suốt những năm tháng qua. Quá nhiều xúc động và đau đớn đã chồng chất trên suốt 13 năm qua lại ập đến lần nữa. Chỉ bởi sự giúp đỡ đầy ân sủng của Chúa Giê-xu nên chúng tôi mới vượt qua được. Giờ đây mọi chuyện tốt đẹp và tôi thật sâu xa biết ơn Chúa vì đã ban cho tôi một người bạn đường giúp đỡ tuyệt vời. Không có nàng chắc tôi không thể làm được gì cả! Đức Chúa Trời luôn luôn tốt lành cho chúng ta.
Khi tôi đi tù, tôi nghĩ rằng hội thánh tôi là đúng về giáo lý và thực hành, còn những nhóm hội thánh tư gia khác ở Trung Hoa đã sai lầm nghiêm trọng. Thế nên trong những năm đầu tôi rất ít hoặc không tiếp xúc với các chi thể khác trong thân thể Đấng Christ ở Trung Hoa, tin rằng tôi đang phục vụ Chúa bằng cách tránh né mọi liên lạc với họ. Chỉ sau khi được thả tù tôi mới học biết mang lấy tấm lòng của Chúa đối với tất cả các con cái Ngài.
Năm 1997, ngay khi gia đình tôi vừa mới ổn định, tôi lại bị bắt lần nữa và bị tống tù ba năm nữa. Lần này cũng chung vụ việc khi Brother Yun và Brother Xu bị bắt, cùng nhiều vị lãnh đạo hội thánh khác nữa. Tôi còn ở trong tù khi Chúa bởi phép lạ cho phép Yun vượt thoát ngục, dù chân anh bị đập thê thảm đến nỗi người ta gọi anh là “thằng què.” Chúa mở những cánh cửa tù cách siêu nhiên cho anh Yun vượt thoát. Tôi là nhân chứng cho sự kiện “Đấng mở thì không ai đóng được, đóng thì không ai mở được” (Khải Huyền 3:7).
Tôi muốn chia sẻ một phần làm chứng của tôi liên quan trực tiếp đến khải tượng Trở Lại Giê-ru-sa-lem.
Năm 1995 vợ chồng tôi có thêm một bé gái. Tôi đã 45 tuổi và không mong làm cha lần nữa. Kinh Thánh chép, “Kìa, con cái là cơ nghiệp từ CHÚA ban; Bông trái từ lòng dạ là phần thưởng.” (Thi Thiên 127:3). Chúng tôi thật hạnh phúc.
Vào Đầu Năm Mới 1997 một cuộc họp mặt hiệp nhất được Brother Yun tổ chức gần thành phố tôi ở. Các vị lãnh đạo của nhiều mạng lưới hội thánh khác nhau được mời tham dự để tất cả chúng tôi có thể thông công cùng nhau, cầu nguyện cùng nhau, và phá đỗ những rào cản đã tồn tại giữa các nhóm khác nhau. Tôi nôn nả tham dự vì Chúa đã tỏ cho tôi biết sự hiệp nhất trong phong trào hội thánh tư gia là thiết yếu nếu chúng tôi phải tấn lên với tin lành như Chúa muốn. Chỉ trừ khi chúng tôi thực sự tha thứ lẫn nhau và được giải hòa, tôi biết rằng Chúa sẽ không bao giờ hoàn toàn ban phước công việc chúng tôi.
Vào thời điểm đó, gia đình chúng tôi đang bị công an truy lùng. Chúng tôi đang sống trong chung cư bốn tầng trong một binhđing đang sửa chữa. Chúng tôi không thể ở một nơi bình thường được vì làm như thế đòi hỏi chúng tôi phải đăng ký với chính quyền địa phương, điều này chắc chắn đưa đến việc bắt bớ chúng tôi ngay lập tức.
Chính buổi sáng mà tôi phải đi đến buổi họp mặt hiệp nhất, khi tôi đang nói chuyện trên phone thì nghe tiếng kêu thất thanh. Vợ tôi lao vào phòng ngủ la lớn hãi hùng. Con gái lớn tôi, lúc đó 18 tuổi, đang ôm đứa em nhỏ nó, 15 tháng tuổi lúc đó, trên lan cang nhìn xuống đường bên dưới. Như thế nào đó đứa gái nhỏ cựa quậy tuột khỏi tay bế của chị. Nó té xuống từ bốn tầng lầu xuống đất, đầu đập xuống trước, vào đống gạch dưới đường.
Vợ tôi bồng đứa con gái nhỏ trong tay và khóc lớn. Cô nói, “Mau lên, mình phải đưa con vào nhà thương ngay lập tức!” Ngay lập tức tôi thấy đứa bé đã chết. Đầu bé bị dập mạnh và một miếng tủy óc trắng đã lòi ra từ sọ trước.
Tôi nói, “Không có lý gì để đi nhà thương nữa. Con đã chết thật rồi. Không có gì nhà thương có thể làm khiến con đỡ hơn được nữa.” Một tràng xúc động chạy xuyên tôi. Một mặt tôi biết con đã chết, nên không cần phải vô nhà thương. Tôi cũng biết nếu chúng tôi đến nhà thương chính quyền sẽ chẳng bao lâu khám phá ra chúng tôi không đăng ký chỗ ở, thì chắc chắn tôi bị bắt và tống trở lại vào tù, có thể lắm bị kết án giết chính con gái tôi. Chắc chắn chúng tôi bị rắc rối vì sống bất hợp pháp trong một toà binhđing xây chưa xong, và gia đình cho phép chúng tôi ở đó cũng sẽ gặp rắc rối.
Tôi cũng cảm thấy rằng việc bất ngờ xảy ra này chính là tấn công của ma quỉ, định làm xao lãng tập trung của tôi và ngăn các bạn đồng công và tôi không tham dự buổi họp hiệp nhất sống còn này. Satan không vui khi thấy dân sự Chúa đến với nhau bẻ gãy những rào cản giữa họ. Nó đã mất nhiều năm quỉ quyệt dựng lên những tường ngăn cách của sự không tha thứ, hiểu lầm và định kiến. Chẳng lạ gì nó sẽ phóng mọi nỗ lực ngăn chặn buổi họp mặt không cho diễn ra.
Tôi quì gối xuống và cầu nguyện. Tôi giận dữ, xúc động và đau đớn, tất cả đến cùng lúc. Tôi nói, “Chúa ơi, nếu đây lá ý Chúa cho hội thánh Trung Hoa được hiệp nhất, thì con xin Chúa đem lại sự sống cho con gái con. Con cầu nguyện xin hôm nay Ngài sẽ đặt lại hơi thở sống trong thân thể bé, ngày mai Ngài sẽ cho bé nói được, và ngày mốt bé sẽ có thể đi được. Nhưng nếu không phải ý Chúa cho hội thánh Trung Hoa hiệp nhất, thì con sẽ ẩn mình và sẽ không bao giờ giảng tin lành của Ngài nữa.” Dĩ nhiên tôi lúc nào cũng phải tin cậy vào Chúa, nhưng tôi sẽ rút lui khỏi tuyến đầu và chỉ sống cuộc đời yên lặng bình thản.
Một số người nói rằng tôi không được quyền nói với Chúa cách như vậy, nhưng bạn cần phải hiểu rằng tôi thật sự bị sốc nặng và tôi biết tai nạn này là hành động tính toán của ma quỉ đặt ra để ngăn chặn tôi tham dự buổi họp mặt hiệp nhất.
Vợ tôi tiếp tục ôm con trẻ chúng tôi trong tay và đu đưa cái xác qua lại. Con gái đẹp đẽ của chúng tôi đã hoàn toàn tắt thở, tim bé ngừng đập và bé thành xanh tím.
Buổi họp sẽ bắt đầu tối hôm đó tại vùng cách nhà tôi 20 dặm (32 km). Tôi quyết định để qua bên nỗi đau đớn mình và tham dự buổi họp như dấu hiệu chống lại Satan và hành động đức tin nơi Chúa. Tôi cũng quyết định không than khóc, mặc dù tôi rất đau đớn trong lòng. Tôi muốn cho ma quỉ thấy rằng nó không bao giờ có thể hăm dọa hay chặn đứng tôi được.
Vào cuối chiều hôm đó, Brother Yun đã bắt đầu thuyết trình. Các bạn đồng công và tôi kiếm chỗ ngồi và không nói cho bất kỳ tín đồ nào khác những gì đã xảy ra. Trong bữa ăn tối chúng tôi quyết định không ăn gì. Thay vì thế chúng tôi kiêng ăn và cầu nguyện cùng nhau trong phòng họp, nhưng tôi vẫn không nói với bất kỳ ai chuyện gì xảy ra. Tôi nhắc lại Chúa đứa con gái tôi thật là một phước hạnh lớn, và sự ra đời của bé thật là niềm vui lớn cho tôi ở tuổi 45. Tôi tự xét mình xem có phải chuyện này xảy ra vì tội lỗi nào đó trong tôi. Tôi nói với Chúa nếu nó xảy ra vì tôi nghịch với Chúa, thì tôi không có gì phải phàn nàn cả. “Ơn phước Đức Chúa Trời ban, chúng ta nhận; còn tai họa, lẽ nào chúng ta không nhận? . . . CHÚA đã ban cho, và CHÚA đã lấy lại. Danh CHÚA thật đáng chúc tụng!" (Gióp 2:10; 1:21)
Sau buổi họp mặt ngày đầu, tôi biết gia đình cần mình nên tôi trở về nhà lúc vợ và con gái lớn tôi đang ngủ. Mắt vợ con tôi sưng đỏ. Vợ tôi vẫn ôm đứa con chết trong tay. Tôi nghiêng về trước và cầu nguyện cho bé trong Chúa Giê-xu. Thình lình tôi nghe giống như tiếng hơi thở nhẹ từ miệng bé, như tiếng ợ. Tôi nhận ra rằng chắc chắc bé đang thở và tôi oà khóc lớn, “Ngợi khen Chúa!”
Tấc cả bốn chúng tôi ngủ chung một phòng, nhưng đêm đó không ai ngủ cả. Cạn hết xúc động, chúng tôi chỉ ngồi yên đó cầu nguyện thầm. Lúc năm giờ sáng tôi đứng dậy và đi trở lại nơi họp hiệp nhất và ở đó suốt ngày cầu nguyện và thảo luận với các lãnh đạo hội thánh tư gia khác, họ vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra. Lúc mười giờ tối khi buổi họp chấm dứt ngày hôm đó tôi lại trở về nhà.
Khi tôi bước vào cửa nhà tôi thấy một không khí khác hẳn. Tuyệt vọng đã hoá thành niềm vui. Vợ tôi đang cho con gái nhỏ bú sữa. Bé thở đều, khí sắc đã nên hồng hào trên má, và bé đang đói! Đức Chúa Trời đã bằng phép lạ chữa lành sọ bé, và da đã bao phủ một phần óc bị lòi ra ngoài. Không trợ giúp thuốc men nào được dùng cho bé, ngoại trừ một bác sĩ đại tài, Chúa Giê-xu. Tất cả những dấu vết còn lại vì bé ngã té chỉ là vết sẹo nhỏ ngay giữa trán bé.
Mặc dù những cải tiến rõ ràng này, bé hãy còn xa mới trở lại bình thường được. Bé chưa đi đứng và di động được, mắt bé vẫn nhắm, và bé chỉ nằm đó hầu như bất động ngoại trừ có hơi thở và đang bú sữa mẹ.
Tôi gọi tên bé, “Sheng Ling,” nghĩa là “ơn phước thiêng liêng.” Khi bé nghe tiếng tôi gọi, bé dừng uống sữa và một âm thanh nhỏ vang ra từ miệng bé, như thể bé đang chào tôi. Đêm đó tôi có thể ngủ thật say, biết rằng Chúa đang làm phép lạ lớn lao.
Sáng hôm sau tôi thức dậy sớm và đi đến nơi họp lần thứ ba. Có nhiều sự ăn năn và xưng tội từ các vị lãnh đạo các nhóm khác nhau. Chúng tôi nghe hàng nhiều giờ lời chứng về việc thể nào Đức Chúa Trời đang hành động trong từng mạng lưới hội thánh địa thánh địa phương, và tất cả chúng tôi đều nhận thức rằng Chúa cùng ở với các nhóm khác cũng như ở với chúng tôi. Nhiều năm cay đắng và chia rẽ xụp đổ dưới chân thập tự giá. Những giọt nước mắt đổ ra khi chúng tôi ôm chầm nhau và tiếp nhận nhau như những anh chị em thực sự trong Đấng Christ. Satan nổi giận vì chúng tôi cùng ngồi lại với nhau như một dân của Đức Chúa Trời. Nó muốn chúng tôi tiếp tục làm việc riêng rẽ, bị suy yếu vì những tường chia rẽ. Ao ước của Chúa Giê-xu là con cái Ngài sẽ cùng bước đi với nhau. Ngài cầu nguyện trong Giăng 17:22-23, "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp nhất cũng như Cha với Con là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn hiệp nhất và nhờ đó, thế gian biết rõ là Cha đã sai Con và Cha yêu quí họ như Cha đã yêu Con."
Tôi tin rằng nếu không có buổi họp mặt đó, và những buổi khác giống vậy nữa, sẽ không có sự hiệp nhất giữa vòng các nhánh khác nhau trong các hội thánh tư gia Trung Hoa ngày nay. Trong tình trạng vỡ vụn trước đây chắc chắc sẽ không cách nào chúng tôi có thể hy vọng vâng theo sự kêu gọi của Chúa để đem tin lành xuyên qua những dân tộc Hồi Giáo, Phật Giáo, và Ấn Độ Giáo trở về lại Giê-ru-sa-lem. Đây là lý do tại sao tôi muốn chia xẻ lời chứng cá nhân này, đối với tôi đây là thời điểm then chốt theo sự hiểu biết và dấn thân của tôi vào phong trào Trở Lại Giê-ru-sa-lem này.
Khi tôi trở về nhà đêm lần thứ ba, vợ tôi lần nữa đang cho con gái nhỏ chúng tôi bú sữa mẹ. Tôi giơ tay ra và nói, “Sheng Ling, đến đây ba ôm con nè.” Bé bước một bước đến tôi rồi ngã xuống, nhưng tất cả chúng tôi đều vui mừng bé đã bước đi được một bước. Chỉ hai ngày trước đây bé đã chết vì óc bé lòi ra khỏi sọ đã bị nứt. Tôi bắt đầu khóc lớn vì vui mừng.
Chính đêm thứ ba đó tôi nói với gia đình tôi những điều mình cầu nguyện khi Sheng Ling mới ngã xuống từ cửa sổ. Tôi nói với gia đình, “Khi ba mới bồng thân thể bé từ dưới đường, ba qùi gối và xin Chúa, ‘Con cầu nguyện xin Chúa khiến con gái con sống lại. Con cầu nguyện xin hôm nay Chúa sẽ đặt hơi thở sự sống vào thân thể bé, ngày mai Chúa sẽ cho bé nói được, và ngày mốt bé sẽ có thể đi được.’” Khi gia đình nghe vậy, tất cả đều vui mừng vô cùng, biết được Chúa đang làm phép lạ lớn lao.
Vào sáng ngày thứ tư tôi đến buổi họp mặt với niềm vui tràn ngập trong lòng. Nhưng sự hăng hái của tôi chẳng bao lâu bị dập tắt khi nhiều vị lãnh đạo hội thánh tư gia chỉ vào tôi và nói, “Những ai tham dự buổi họp quan trọng này đều phải ở lại đây. Nếu anh không thể ở lại với chúng tôi, nhưng cứ vội vàng về nhà vừa khi buổi họp chấm dứt mỗi đêm, thì anh tận hiến cho sự hiệp nhất như thế nào được chứ?” Tôi vẫn chưa chia xẻ bất cứ điều gì với những vị lãnh đạo khác ở buổi họp mặt, nên họ không hiểu chuyện gì đã xảy ra trong đời tôi.
Lúc buổi họp cuối cùng đến phiên Brother Yun phát biểu, rồi các lãnh đạo sẽ cầu nguyện cùng nhau lần cuối trước khi mọi người giải tán về nhà riêng. Khi anh đang nói, con gái lớn tôi bước vào và bắt đầu nôn nả thủ thỉ vào tai tôi. Nó vội vàng đến nơi họp để báo tôi biết em gái nhỏ của nó bây giờ đang đi đứng và nói chuyện bình thường! Chính ngay lúc đó tôi được thúc giục đứng lên. Tôi công bố với mọi người, “Bây giờ tôi biết ý chỉ của Đức Chúa Trời muốn hội thánh tại Trung Hoa hiệp nhất với nhau!” Trước mặt hơn một trăm vị lãnh đạo, tôi làm chứng về chuyện gì đã xảy ra cho con gái nhỏ của tôi. Mọi người đều ngợi khen Chúa. Những người chỉ trích tôi về chuyện tôi về nhà mỗi tối đều đến và xin lỗi.
Chúa không chỉ chữa lành Sheng Ling khỏi tai nạn té chết, nhưng Ngài còn ban phước cho bé nhiều cách đặc biệt lắm. Bây giờ bé tám tuổi và rất thông minh đến nỗi học nhảy lớp trước các bạn! Bé không phải bị đau dài hạn gây ra vì cú ngã đó. Điều duy nhất còn lại là vết sẹo nhỏ trước trán. Như thể Chúa để lại vết sẹo để nhắc nhở chúng tôi về ân sủng và quyền năng lớn lao của Ngài.
Xin mời bạn đến thăm chúng tôi bất cứ lúc nào! Bạn sẽ thấy Sheng Ling là cô bé thông minh đầy sức lực rất yêu mến Chúa với cả tấm lòng. Tên bé “Ơn Phước Thiêng Liêng” thật thích hợp với bé.
Lần đầu tiên Chúa bắt đầu nói với tôi về việc đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem năm 1979. Từ đó trở đi, việc đó dần dần trở thành mục đích chính cho sự phục vụ Chúa của tôi. Việc đó là sứ mạng tôi nhận từ Chúa, sự kêu gọi của Ngài đối với tôi.
- Xin cầu nguyện cho hội thánh tại Trung Hoa sẽ biết ý muốn Chúa để chúng tôi dâng hiến chính mình cho Chúa không giữ lại hoặc ngần ngại điều gì. Xin cầu nguyện cho càng lúc càng nhiều tín đồ ở Trung Hoa mang lấy gánh nặng này để đem tin lành trở lại Giê-ru-sa-lem.
- Xin cầu nguyện cho chúng tôi sẽ có thể cùng làm việc với các tín đồ khác từ khắp nơi trên thế giới để chúng ta có thể hoàn thành Đại Sứ Mạng cùng nhau. Khi tất cả các dân tộc đã nhận được lời chứng về tin lành, sự cuối cùng sẽ đến.