Lời Giới Thiệu
Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vừa qua giai đoạn hình thành (năm 1927) đã lo “phát triển mạnh và phát triển nhanh”. Trong cuộc “phát triển” ấy, một thành phần mới gia nhập giáo hội vì những lý do thúc đẩy khác nhau: kinh tế, chính trị, tôn giáo v.v… nhưng không phải vì “tìm Chân Lý” hoặc tìm “Chúa Cứu Thế”. Có những “phong trào quần chúng” (Mass Movements) theo các bản báo cáo lạc quan: có nơi đến 2.000 gia nhập giáo hội, trong một năm – đến nỗi nơi đó được chỉ định tiếp Ðại Hội Ðồng Tổng Liên Hội – và mời được Tiến sĩ Jonathan Goforth nổi danh là vị Sứ giả Phục hưng Trung Quốc làm diễn giả chính. Tuy nhiên, Mục sư Goforth đã buồn bã nhận định rằng: Trong các cuộc giảng Phục hưng suốt đời ông, chỉ có 2 địa điểm không được Phục hưng, lý do duy nhất là “sự ngăn trở nội bộ”. Rất tiếc là một trong hai địa điểm đó là nơi họp Ðại Hội Ðồng Tổng Liên ở Việt Nam năm 1928.
Mười năm trôi qua trong tình trạng đó: cố gắng hoạt động thật nhiều nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu. Nhiều chi hội từ Bắc chí Nam bắt đầu cầu nguyện xin Chúa Phục hưng Hội Thánh. Các sinh viên, học viên Trường Kinh Thánh Ðà Nẵng mặc dù học tập hết sức bận rộn, nhưng quyết định dành thì giờ mỗi buổi sáng tinh sương suốt 2 niên khóa 1936-1937 và 1937-1938 để thiết tha cầu xin Chúa Phục hưng Hội Thánh Việt Nam.
Chúa đã trả lời lời cầu nguyện đó, đúng theo lời hứa của Ngài, Chúa sai Tiến sĩ Tống Thượng Tiết (Dr. Sung) đến Viết Nam năm 1938, giảng Phục hưng tại Hà Nội, Vĩnh Long và Ðà Nẵng. Thật Chúa Thánh Linh đã Phục hưng Hội Thánh Việt Nam. Hàng ngàn vị tín hữu và Mục sư, Truyền đạo đang tích cực phục vụ Chúa tại Việt Nam và hải ngoại đã nhìn nhận rằng họ đã gặp Chúa và được Chúa xoay hẳn hướng đi của cuộc đời họ trực tiếp hoặc gián tiếp do cuộc giảng dạy của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết.
Năm 1938, người viết mới được 12 tuổi, nhưng đã được hân hạnh đến dự cuộc nhóm Phục hưng của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết tại Ðà Nẵng. MS Tống Thượng Tiết giảng suốt 6 ngày, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần từ 2 tiếng rưỡi đến 3 tiếng. Một đêm, sau khi nghe Lời Chúa, về ‘Con Chiên Lạc Mất’ và đáp ứng lời kêu gọi của Chúa, người viết đã tiến lên trước tòa giảng, xin MS Tống Thượng Tiết cầu nguyện; và đã được tái sinh ngay đêm đó.
Năm 1959, một nhà sử đã sưu khảo tư liệu khắp Á Châu để viết một quyển tiểu sử của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết – ông đã kết luận rằng: Hầu hết những người đang được Chúa đại dụng tại Ðông Á và Ðông Nam Á đều đã được Chúa tái sinh, kêu gọi và xức dầu Thánh Linh qua Tiến sĩ Tống Thượng Tiết.
Tạ ơn Chúa, nhờ một số anh chị em cố gắng dâng hiến tiền bạc, thì giờ, nên bộ tiểu sử Tống Thượng Tiết của tác giả Liêu Dực Lăng do ông Trần Quốc dịch thuật nay được ấn hành để phổ biến cho các Hội Thánh và Cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Xin Chúa Thánh Linh dùng tác phẩm này để ban phước dồi dào cho người đọc.
California, Ngày 1 tháng 7, 1995
MS Lê Hoàng Phu
Chân thành cảm tạ:
Mục Sư và Bà Lê Phước Nguyên
Ông Trần Ngọc Bản
Bà Trần Lê Minh
Mục Sư Lưu Quang Lâm
Họa sĩ Trương Bửu Giám
GS. Nguyễn Ánh Tuyết
Vĩnh Phúc
—————– o0o —————–
CHƯƠNG 1
LỜI MỞ ÐẦU
“Chỉ có người Trung Hoa mới có lối suy nghĩ của người Trung Hoa. Chỉ có người Trung Hoa mới sử dụng được những cốt truyện, những ẩn dụ, những ngụ ngôn Trung Hoa để thuyết phục và làm cho say mê người nghe. Lối diễn đạt của người ngoại quốc khó có thể thuyết phục được người Trung Hoa và không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia của Chúa Cứu Thế. Hàng ngàn hoặc hàng vạn giáo sĩ người Anh, người Mỹ sẽ không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia Cơ đốc giáo. Chúng ta cần hàng ngàn, hàng vạn người Trung Hoa, những người Trung Hoa thực sự dâng trọn tấm lòng, thân thể và môi miệng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần loại người này, không nhất thiết họ phải thông thạo Nho học. Nếu họ tinh thông Nho học thì lại càng quí, nhưng điều quan trọng hơn cả là họ cần phải có lòng quả cảm, chân thành, có tinh thần dâng mình và là những con người khí khái, độc lập. Ðã đến lúc chúng ta phải tìm ra một sứ đồ người Trung Hoa cho người Trung Hoa chính gốc Hoa, không là người ngoại quốc.”
“Vị sứ đồ Trung Hoa này xuất hiện từ đâu? Có phải từ Thần học viện chăng? Xin thưa, vị này xuất hiện từ một nơi không ai ngờ. Như bao nhiêu sứ giả của Thượng Ðế trước kia đã xuất hiện, chúng ta không biết, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện cho vị ấy mau đến. Cầu nguyện để khi người ấy đến thì sẽ giống như Giăng Báp-tít, làm vang dội cả đồng vắng, rúng động cả toàn quốc.”
Những lời nói trên là của Edwin Joshua Duke, một giáo sĩ thuộc Anh quốc giáo được phái đến Phúc Kiến vào năm 1885. Năm mươi năm sau người sứ đồ Trung Hoa ấy đã xuất hiện và đã phát ra những tiếng kêu làm rúng động đồng vắng Trung Hoa. Ấy là một người Trung Hoa, một học giả uyên bác đã dâng trọn vốn liếng tri thức và cuộc sống của mình trên bàn thờ của Chúa, không giữ lại cho mình một chút gì. Người ấy can đảm không sợ hãi, không giả dối, không biết màu mè, chỉ biết cùng đi với Chúa. Người đã ra đi một mình với Chúa, và chỉ đặt tất cả niềm tin vào Chúa. Người không ỷ lại vào một thế lực nào ngoài Chúa. Người ấy chính là Mục sư Tống Thượng Tiết, người thôn Phủ Túc, huyện Phổ Ðiền, tỉnh Phúc Kiến. Vị sứ đồ Trung Hoa này có một cá tánh rất đặc biệt, với một tâm tình thật nóng cháy, rất yêu linh hồn con người, nhưng lại không có sự hòa nhã của một Cơ đốc nhân thông thường. Người không có một hình dung tốt đẹp, diện mạo không khôi ngô, ăn mặc lại lôi thôi. Nhưng người lại là một học giả uyên bác, một khoa học gia lỗi lạc. Khi người truyền bá Phúc âm thì rất giản dị, dễ hiểu, không một chút phô trương về vốn liếng tri thức của mình.
Tống Thượng Tiết là người đã đề xướng sự thờ phượng trong gia đình. Nhưng chính ông lại đã rời khỏi gia đình mình, không bịn rịn để đi xa truyền bá Phúc âm. Lúc thuyết giảng ông thường múa may chân tay, la lớn tiếng, có khi làm cho người nghe cảm động muốn khóc, nhiều lúc lại khiến thính giả không nhịn được cười. Nhưng khi xuống khỏi tòa giảng, ông trở lại lầm lì, ít nói. Ông tới nơi vắng vẻ một mình, dưới mắt người khác ông là một người quái đản, kỳ khôi. Khi tiếp xúc với những người nước ngoài, đặc biệt là với các giáo sĩ và giáo sư thì có một liên hệ thật là thâm sâu, nhưng đối với người ngoại quốc nào có cung cách khách sáo thì ông phán rất gay gắt. Ðiều này có thể gây hiểu lầm ông là một người bài ngoại. Ông gớm ghê tội, đả phá và coi tội lỗi như kẻ thù. Nhưng điều làm cho người ta cảm động nhất, ấy là lòng từ ái của Chúa ở trong ông.
Là một nhà tổ chức thiên phú có biệt tài lãnh đạo, nhưng chính ông lại khước từ tổ chức, không thiết lập giáo hội, không thành lập giáo phái, không thích làm lãnh tụ. Bị nhiều người phê phán, nhưng ông coi thường mọi thị phi, không để ý đến vinh dự cá nhân. Ông được rất nhiều người thương yêu và đồng thời cũng bị rất nhiều kẻ chán ghét. Ðó là những cá tính của nhà truyền đạo vĩ đại người Trung Hoa này – Mục sư Tống Thượng Tiết. Thoạt nhìn bề ngoài có vẻ như đầy mâu thuẩn, nhưng thật ra ông có một tâm hồn thật tuyệt diệu hài hòa.
Giống như Giăng Báp-tít, Tống Thượng Tiết qua đời trong tuổi tráng niên, hưởng thọ chỉ 43 tuổi. Hầu việc Chúa vỏn vẹn chỉ 15 năm. Thời gian tuy ngắn, nhưng khối lượng công việc thì không nhỏ, mà thành tích lại càng lớn lao hơn nữa. Trong vòng 15 năm ngắn ngủi ấy ông đã làm chấn động cả nước Trung Hoa, chấn động giáo hội cả ở miền Trung và khắp miền Ðông Nam Châu Á.
Hàng ngàn người trong vùng đã tin nhận Chúa Cứu Thế sau khi nghe ông giảng. Giáo hội Trung Hoa sở dĩ còn đứng vững sau chiến tranh Trung – Nhật, công lao này phải qui vào quyền Chúa và Mục sư Tống Thượng Tiết. Ðời sống tâm linh của những giáo hội đó không bị nao núng và sức sống thuộc linh của giáo hữu không bị khô cạn cũng là nhờ công lao khó nhọc của ông.
Tại Trung Hoa, hoặc các nước Ðông Nam Á, trên nước Mỹ, nước Anh hay bất cứ một nơi nào có người Trung Hoa, nếu chúng ta trò chuyện với những tín hữu Cơ đốc người gốc Ðông Nam Á, họ đều rất trìu mến khi nhắc đến Mục sư Tống Thượng Tiết. Rất nhiều người ngoại đạo đã tin nhận Chúa Cứu Thế khi nghe ông giảng: nhiều lãnh tụ Cơ đốc đã nản lòng lùi bước nhờ những bài giảng bồi linh của ông mà được trở lại nóng cháy, hăng hái tiến tới trên bước đường hầu việc Chúa. Nhiều nhà lãnh đạo giáo hội, vốn chỉ là hữu danh vô thực, và những người “theo đạo kiếm gạo”, nhờ nghe những sứ điệp của ông đã trở thành những người có sức sống tâm linh thực sự, đầy dẫy Chúa Thánh Linh và trở nên những nhà truyền bá Phúc âm trung kiên của Chúa Cứu Thế. Những thành quả quí báu đó vẫn được tồn tại lâu dài.
CHƯƠNG 2
SỰ TÁI SANH CỦA NGƯỜI CHA VÀ SỰ ÐẮC THẮNG
Trong một tự truyện của Mục sư Tống Thượng Tiết với tựa đề “Lời Chứng Của Tôi”, ông thường thích thú nhắc lại những lời giáo huấn của cha khi còn thơ ấu. Thân sinh của ông rất ưa nhắc lại sự từng trải tái sanh của đời mình. Lúc ấy ông còn quá nhỏ nên không hiểu được ý nghĩa hai chữ “tái sanh”, nhưng ông cảm thấy chuyện này thật phước hạnh.
Thân phụ của Tống Thượng Tiết, Mục sư Tống Học Liên, lúc 16 tuổi đã vào một Thần học viện của quận Phúc Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Sau hai năm trong trường, ông chỉ là một sinh viên hoàn toàn nô lệ vào thời khoá biểu, học để được lên lớp và lấy điểm một cách máy móc, tâm tình không nóng cháy, cũng không có tinh thần tìm tòi học hỏi, chẳng màng đến thuộc linh, không thật sự nhận biết Chúa Giê-xu. Hai niên học trôi qua một cách vô bổ. Ðến năm thứ ba là năm tốt nghiệp, nửa niên học đầu ông vẫn theo lề lối cũ, không có gì đổi mới và sự học cũng rất tầm thường. Ðến tam cá nguyệt cuối cùng, trong tâm trí trầm lặng của ông bỗng nhiên có những luồng gió thổi vào và gợn lên những làn sóng nhè nhẹ. Khi học Phúc âm Giăng và thư Phao-lô gửi cho các tín hữu La Mã, ông được sự khải thị của Thánh Linh cảm biết mình là con người đầy tội lỗi. Những sự đen tối trong thâm tâm được Thánh Linh soi rọi vào, những tội lỗi kín giấu được bày ra trước mắt. Ông phải tìm cách giải quyết. Ngày nào chưa giải quyết xong là ngày ấy chưa có sự bình an. Một cuộc chiến khốc liệt tranh chấp trong nội tâm khiến ông ăn ngủ không yên. Ðến lúc kiệt sức thì ông chỉ biết kêu cầu với Chúa. Mỗi buổi sáng, trong khi mọi người con an giấc, ông đã thức dậy tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Ðêm đêm trong khi mọi người đã đi vào giấc ngủ thì ông vẫn thức để cầu nguyện xin Chúa ban cho sự vui thỏa trong lòng, cũng như sự bình an là đã được tha tội.
Một ngày kia, khi bình minh vừa ló dạng, ông đã thú nhận với Chúa tất cả mọi tội lỗi của mình. Trong lúc thật sự đau thương thống hối, ông nhận được sự tha thứ của Chúa, được gần gũi trong sự hiện diện của Ngài. Ngày hôm đó ông được sự sống từ Thánh Linh cũng là khởi điểm một đời sống mới. Lúc ấy ông được 19 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp trường Thần Ðạo ở Phước Châu, ông trở về quê cũ là huyện Hưng Hóa, cũng gọi là huyện Phổ Ðiền, làng Phượng Tích, tỉnh Phúc Kiến, bắt đầu cuộc đời truyền bá Phúc âm. Với cuộc đời mới được Thánh Linh thăm viếng, cuộc sống ở nông thôn thật đơn sơ nghèo nàn, nhưng cũng thoải mái dễ chịu. Ông đã cần cù gieo giống, chăm sóc, vun sới những thửa ruộng lòng của những nông dân nơi quê hương. Thấm thoát năm, sáu năm trôi qua, ông lập gia đình năm 25 tuổi. Vợ ông là một cô gái trong một gia đình Phật giáo. Sở dĩ cô gái thơ này nhận lấy Mục sư Tống Học Liên vì ngày trước bố mẹ hai bên gia đình, theo tục lệ cổ truyền đã đính ước cùng nhau, hứa hôn cho hai con khi chúng còn trong bụng mẹ. Bà Tống Học Liên quả là một người đàn bà đảm đang, cần kiệm. Tình thương yêu vợ chồng ngày càng đậm nồng.
Ngày ngày ông đi truyền giảng Phúc âm cho dân chúng trong làng, đêm về chong đèn dạy vợ viết và đọc. Sau một thời gian nghe chồng giảng dạy hiểu biết, bà chấp nhận từ bỏ Phật giáo, tin Chúa Giê-xu và nhận lễ báp têm. Nhưng đó chỉ là việc làm của con người chứ chưa phải là việc của Ðức Chúa Trời. Bà đã xưng nhận đức tin, nhưng sự hiểu biết về Chúa còn rất nông cạn, lòng kính yêu Chúa cũng còn nhiều hạn hẹp. Lập gia đình chưa đầy một năm bà Tống Học Liên sinh hạ một bé gái đầu lòng. Qua năm thứ nhì lại thêm được một trai, đó là anh và chị của Tống Thượng Tiết.
Gia đình bốn người thì vui vẻ nhộn nhịp, nhưng bổn phận của người cha ngày càng nặng. Lương hàng tháng của Mục sư Tống Học Liên lúc ấy được chừng 5,6 đồng. Số lượng quá ít, thật là eo hẹp cho việc chi tiêu trong gia đình.
Trong cảnh nghèo túng, ông Tống Học Liên loay hoay suy nghĩ mãi. Những đêm dài trằn trọc không sao ngủ được. Trong mông lung nghĩ ngợi, hình như có một tiếng nói thì thầm thách thức rằng: Nghiệp dĩ làm người truyền đạo này giống như một kiếp ăn mày! Chưa xong bữa sáng đã phải lo chạy bữa tối. Cuộc đời khốn cùng như vậy, một thư sinh vốn chỉ biết bút nghiên như mình làm sao chịu nổi? Dù chưa phải là một nhà nho học tinh thông, nhưng mình cũng thuộc dòng dõi sĩ phu. Trong gia đình cũng đủ cầm, kỳ, thi, họa. Bây giờ nếu không hành chức nghiệp truyền đạo này chẳng nhẽ không sống nổi hay sao?” Rồi một kết luận nổi lên trong tâm trí: “Thôi thì bỏ chức vụ truyền đạo rời khỏi chốn làng mạc nghèo nàn này, đi đến một thành phố để làm một ký giả cho nhà báo; hay vào một trường ngoại quốc xin một chức vụ giáo sư”. Ðó là tiếng nói của ma quỷ. Nhưng rồi Thánh Linh cũng êm dịu nhắc nhở ông những câu trong Kinh Thánh như những ngọn đèn soi thấu đến tâm linh. Châm ngôn đoạn 3 câu 5: “Hãy hết lòng tin cậy nơi Ðức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con”. Lương tâm ông cũng âm thầm trách móc: “Chúa Giê-xu đã ban ân điển tha tội cho ngươi, cho dẫu ngươi có xả thân chịu chết, hay hy sinh bị bắt bớ đánh đập đi nữa thì cũng không thể đền đáp được ân thương xót ấy. Những khó khăn nho nhỏ này của cuộc sống ngươi không thể chịu đựng được cho Ngài sao? Ngươi muốn phụng sự cho thần tài, làm nô lệ cho tiền bạc, chỉ muốn chiếm hữu ruộng đất mà không đơm bông kết trái của sự sống! Ngày ngươi gặp Chúa Giê-xu, ngươi hai bàn tay trắng. Ngươi há không thấy chim trên trời, hoa cỏ ngoài đồng: chúng không trồng, không gieo gặt, cũng chẳng quay tơ dệt chỉ. Chúa nuôi chúng làm sao? Chim vẫn bay lượn trên vòm trời xnh, hoa cỏ vẫn trang điểm các đồng hoang vắng. Mắt của Chúa há không đang theo dõi ngươi và quý ngươi hơn tất cả vạn vật trên đời này hay sao? Ngươi hãy xét lại, trong quá khứ có ai đi rao giảng Phúc âm mà chết đói trong những ngôi làng nghèo nàn này chưa? Ngươi phải lấy lòng tin cậy nơi Chúa Hằng Hữu, lấy lời vua Ðavít làm tấm gương soi rọi cho lòng ngươi: “Sư tử tơ bị thiếu kém và đói, nhưng người nào tìm cầu Ðức Giê-hô-va chẳng thiếu của tốt gì”.
Sau cuộc chiến tâm linh ác liệt kéo dài từ đêm khuya đến gần sáng, khi trăng đã lặn, và gà đã gáy sáng thì ông Tống Học Liên nghe thấy rõ ràng tiếng nói của Chúa Giê-xu từ trời theo gió sáng sớm rót vào tai: “Tôi tớ của Ta ơi! Ðừng sợ, có Ta đây, tất cả những nhu cầu của ngươi, Ta đều đã biết cả rồi”. Ông thức dậy, choàng áo lên người và báo ngay cho vợ biết sự chiến thắng của mình trong đêm qua khi giao chiến với ma quỉ. Từ đó ông không còn ý định rời bỏ chức vụ nữa và bắt đầu chỉnh đốn lại cuộc đời truyền giảng Phúc âm của mình.
Sau kinh nghiệm được thánh hoá này, chức vụ truyền đạo càng ngày càng khiến cho ông phấn chấn. Sau này được Chúa trọng dụng, kết quả lại càng tốt đẹp hơn. Hội Thánh do ông quản nhiệm mới đầu số tín hữu chỉ có hơn 100. Một năm sau con số tăng lên đến 5,6 trăm. Năm thứ ba được trên 1000 tín hữu…
Tống Học Liên chẳng những có quyền năng trong sự giảng dạy, mà cũng đầy ơn trong lãnh vực viết sách báo. Ông rất ham mê đọc sách, nhất là những loại sách cổ, có bao nhiêu tiền ông đều dành để mua sách. Thư viện của gia đình ông có trên 10 ngàn quyển và ông cũng rất quý những quyển sách ấy. Không phải ai cũng dễ dàng mượn sách của ông. Một lần kia, Tống Thượng Tiết làm long bìa một quyển sách, trong lòng rất lo âu, mong sao cha đừng phát giác. Nhưng lỗi lầm không sao giấu mãi được nên cậu đã bị một trận đòn đích đáng.
Tống Học Liên có khả năng văn chương nên đã được mời làm chủ biên tờ Phấn Hưng, tờ báo này có rất nhiều độc giả trong tỉnh Phúc Kiến. Ông cũng rất thích viết nhật ký, mỗi ngày hầu như ông đều ghi lại mọi việc làm, mọi cảm nghĩ của mình. Sau này chính Tống Thượng Tiết cũng được thừa hưởng thói quen này.
CHƯƠNG 3
NGƯỜI MẸ ĐƯỢC TÁI SANH TRONG MỘT CƠN BẠO BỆNH.
Tuy cha của Tống Thượng Tiết là một Mục sư đầy ơn, nhưng cụ bà vẫn chỉ là một người tín đồ “hâm hẩm”. Chỉ việc tề gia nội trợ. Mấy năm sau bà sanh hạ thêm hai người con. Đến lần sinh nở thứ năm thì bà bị một bịnh ngặt nghèo. Đứa con thứ năm có sinh nhưng không có dưỡng. Bà mắc phải một bệnh không ai chẩn đoán được. Khi thì hồn bà như bay lên không trung, sống trong hư ảo với các thiên thần. Khi thì bà trở lại với trần gian sống với gia đình, với chồng con. Bà cứ rên siết trong đau đớn, không một y sĩ nào tìm được căn nguyên hay định được bệnh. Hơn nửa năm trôi qua, bà chỉ sống với những siêu thuốc lúc nào cũng sẵn bên mình. Những danh y và những người có kinh nghiệm trong làn đều cho rằng bà sẽ không còn sống bao lâu nữa. Họ khuyên ông Tống Học Liên nên mua sẵn quan tài và áo quần lo tẩm liệm, để khi hữu sự khỏi phải vội vàng hấp tấp. Ông nghe như vậy chỉ biết nuốt nước mắt chuẩn bị như họ đã khuyên nhủ. Vào một đêm ba mươi nhằm mùa đông giá buốt, dưới ánh đèn dầu leo lét, buồn thảm, trên giường bệnh dường như sự chết đã bao trùm bà. Dẫn hết các con đến trước giường bệnh, ông cầm cánh tay chỉ còn xương bọc da của vợ và nói trong nghẹn ngào nước mắt: “Tôi và các con…” Những tiếng cuối cùng chìm trong uất nghẹn không thốt được thành lời. Bà cố gắng nhướng đôi mắt đã trịu nặng mệt mỏi, nước mắt đầm đìa trên gối, bà cố lấy hết tàn hơi nhưng không thể nói ra được. Bà chỉ còn những hơi thở đứt quãng. Căn phòng rơi vào một khoảng khắc im lặng ghê rợn. Bên ngoài song cửa gió bấc gào từng cơn… Bỗng những tiếng khóc của các con vang lên hòa lẫn với tiếng cầu nguyện của Tống Mục sư tạo thành một tấu khúc buồn thê thảm…
Thình lình bà cụ ngồi bật dậy và nói với chồng: “Lấy cơm và thịt cho em ăn đi!” Một người chỉ còn những hơi thở đứt quãng trong giờ hấp hối, bỗng nhiên ngồi dậy đã là một chuyện lạ, mà lại còn đòi ăn cơm và thịt thì quả là một việc lạ trong những việc lạ! Hơn nữa đã lâu lắm rồi bà chẳn ăn hay uống gì. Tống Mục sư lúc nào cũng tin vào quyền năng của Chúa nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên… Ông vừa hết sức ngợi khen, cảm tạ quyền năng Chúa, vừa đi vô bếp nấu cơm và làm thức ăn rồi mang vào cho vợ.
Số là khi đến ranh giới của sự chết, bà nghe tiếng nói của Chúa Giê-xu là người thầy thuốc có thể ban cho sự sống: “Con ơi, hãy chổi dậy ăn cơm và thịt, đêm nay Ta ban cho con sự sống mới” Nghe được tiếng nói đầy năng quyền này, bà đã bật ngồi dậy, cảm thấy đói và khát, nên đã xin chồng cho ăn uống… Khi được mặc khải như vậy rồi, lòng bà trở nên nóng cháy. Sau này chẳng những bà đồng lao cộng khổ cùng chồng mà còn giúp Tống Mục sư rất nhiều trong chức vụ.
Khi vợ lâm trọng bệnh thì Tống Mục sư đem các con gửi cho một ba quen chăm sóc hộ. Vợ đã khỏi bệnh, ông đi rước các con về. Nhìn các con bà òa lên khóc. Nửa năm thiếu mẹ, lại không được tắm rửa, chăm sóc chu đáo, các con dơ bẩn đáng thương. Bà liền chổi dậy tắm rửa thay quần áo và bắt chí rận cho các con.
CHƯƠNG 4
THỜI THƠ ẤU (1901-1909)
Ngày 27-9-1901 nhằm Tết Trung Thu Âm lịch, năm Tân Sửu, lúc 4 giờ chiều, đúng lúc gia đình cùng túng nhất bà Tống Học Liên đã hạ sinh thêm một con trai thứ ba tại làng Phượng Tích. Thêm một miệng ăn là thêm phần khó khăn. Nhưng cám ơn Chúa về phần thuộc linh lúc ấy cả hai ông bà đều có sự sống sung mãn của Chúa Cứu Thế. Họ không lấy sự “thêm người” trong gia đình là một gánh nặng. Trái lại họ biết cám ơn Chúa và đồng tâm đặt tên cho con này là Chủ Ân tức là ân điển của Chúa (sau này đổi lại là Tiến sĩ Tống Thượng Tiết). Tuy tài chánh trong gia đình rất đỗi bần hàn, nhưng bầu không khí vui tươi không bao giờ sút giảm. Ai nấy đều khen gia đình họ Tống là “thiên đàng trên đất”. Đúng vậy, bài Thánh Ca gia đình yêu thích luôn hát là “Khi Chúa Giê-xu ở cùng ấy nơi Thiên cung!”.
Lúc cậu bé Chủ Ân lên sáu thì gia đình dọn từ làng Phượng Tích đến thành Hưng Hóa. Tống Mục sư kiêm giữ chức vụ hiệu trưởng trường Phúc Âm Thành Hưng, một trường tiểu học của Giáo Hội ngay cạnh nhà thờ. Mỗi Chúa nhật đều có lớp học Thánh Kinh. Chủ Ân thường chăm chỉ đến học lớp này. Những giáo viên trường Chúa Nhật rất sành tâm lý nhi đồng và họ biết cách dạy dỗ, khiến cho các em rất ham thích lớp học mà không cảm thấy chán nản. Chủ Ân nhận rất nhiều ân phước tại lớp học. Sau này, Tống Thượng Tiết kể lại những kỷ niệm với trường Chúa Nhật với đầy vẻ thích thú: “Đó là thời gian tôi thấy thích thú nhất, tôi nhớ từng mẩu chuyện của bài học và thường dùng để ứng dụng cho chân lý cho đời sống thực tế hàng ngày của tôi”.
Trong thời thơ ấu, khi còn hồn nhiên vui đùa với bạn bè, thì một biến cố thương đau đã hằn sâu vào lòng và biến đổi hẳn cuộc đời Chủ Ân. Một buổi chiều, cậu đang cắp sách trên đường từ trường về, gần đến nhà thì nghe mẹ khóc la. Chủ Ân rất sợ hãi, không biết chuyện gì đã xảy ra. Anh và chị đôi mắt đỏ hoe buồn thảm cho biết: “Em gái Thụy Đức đã chết rồi!” Thụy Đức bé bỏng nằm yên trên đất, Chủ Ân chạy lại nhấc cánh tay lạnh cứng của em và nước mắt trào tuôn…
Cái chết của bé Thụy Đức đã ảnh hưởng nặng nề trên đời sống của Chủ Ân. Cậu thường nghĩ ngợi: “Người chết sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đã bám chặt vào tâm trí thơ ngây của cậu, không sao xóa mờ được. Nhiều đêm Chủ Ân bị ác mộng, thấy quỷ dữ đến bắt cậu đi làm phu tù cho chúng. Kinh hoàng thức giấc, toát mồ hôi lạnh cậu kêu thét lên để cầu cứu cha mẹ.
Tống Thượng Tiết cũng đã kể một câu chuyện thật hay: “Lúc thơ ấu tôi rất ham thích tiền bạc, việc gì cũng dính líu đến tiền bạc. Mẹ bảo học thuộc lòng Kinh Thánh câu gốc, tôi ra giá mỗi câu một đồng tiền”. Mẹ chỉ muốn mỗi ngày thuộc một câu, sợ học nhiều tôi không nhớ nổi! Sau một năm, tôi có hơn 300 đồng tiền. Tôi tự nghĩ, tôi đã giàu lắm rồi, lúc nào cũng sợ mất tiền, ăn ngủ không yên. Mẹ bảo tôi đem tiền gửi vào “nhà băng” của mẹ và mỗi tháng mẹ cho thêm một đồng lời. Nghe đến tiền lời, tôi cảm thấy thật là sung sướng. Nhưng tôi nhớ lại khi bé Thụy Đức mất đi, những đồ chơi Thụy Đức không mang theo được. Điều này khiến tôi liên tưởng đến cái gia tài của mình: “Tiền! Khi chết đi có mang theo được đâu? Tôi thấy mình thật ngu dại, và điều này đã đánh gục lòng tham tiền bạc của tôi”.
CHƯƠNG 5
CUỘC ĐẠI PHẤN HƯNG TẠI HƯNG HÓA
Năm 1909, Hội Thánh tại Hưng Hóa tổ chức một đại hội bồi linh, từ đại hội này Chúa ban cho một cơn phấn hưng kỳ diệu “có một không hai”. Lửa Thánh Linh bùng cháy mạnh mẽ trong lòng mỗi con cái, tôi tớ Chúa. Trong thời gian đại hội bồi linh đó, Chủ Ân lúc ấy mới lên chín. Một khải tượng về vinh quang rực rỡ của Chúa qua một vùng hào quang chói lọi đã khắc sâu vào tâm khảm cậu.
Chủ tọa hội đồng bồi linh là Mục sư của thành Hưng Hóa, ông cũng thường đến lớp trường Chúa Nhật của Chủ Ân học để kể chuyện. Lối kể chuyện cũng như phong thái của ông đã thu hút khoảng ba, bốn trăm trẻ em trong trường. Chúng đã để hết tâm trí vào những mẩu chuyện ông kể.
Một buổi chiều thứ năm, nhân lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó, ông đã giảng một bài về Chúa bị bắt trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Từng lời, từng câu như những mũi tên xuyên thẳng vào lòng người nghe. Ông diễn đạt thật linh động và sâu sắc. Đến 34 năm sau, Chủ Ân hồi tưởng lại mà nước mắt vẫn tuôn trào.
Trong đại hội bồi linh Hưng Hóa, vị Mục sư này giảng dạy cách đầy dẫy Đức Thánh Linh và đầy năng lực từ thiên thượng, đạt được rất nhiều mỹ mãn. Những người đến dự chiếm hết ghế ngồi, hết luôn cả chỗ đứng bên trong, phải tràn ra bên ngoài, các lối đi cũng không còn chỗ chen chân.
Ban tổ chức phải dựng tạm một căn lều, sức chứa khoảng ba, bốn ngàn người. Những chẳng mấy chốc căn lều cũng không đủ vì người đến dự đại hội ngày càng đông. Ngoài dân địa phương, tín hữu những vùng xa như Phước Châu, Hạ Môn rủ nhau kéo đến đại hội.
Các Hội Thánh miền nam Trung Hoa cũng gửi đại diện đến. Thậm chí có những con cái Chúa từ Mỹ Châu cũng đến dự nữa. Đây là một chuyện khó tin, nhưng trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết đã ghi lại điều này. Những người đến dự đại hội đều được Chúa Thánh Linh thăm viếng, trở về Hội Thánh nhà với tinh thần nóng cháy và tấm lòng sung mãn.
Trong những buổi thờ phượng, có rất nhiều tín hữu được Chúa Thánh Linh cảm hóa, ăn năn xưng hết tội lỗi của mình. Người này thừa nhận đã thâm lạm công quỹ, người kia xưng là đã ăn cắp của người khác, cậu trai này nhận có đáng cắp cây dù, em bé nọ nhận có ăn cắp quả bóng. Ai nấy xưng ra những tội của mình đã phạm. Thật là kỳ diệu, có hai trăm người nghiện ma túy cũng đứng dậy xưng tội, họ đưa ra những dọc tẩu dùng để hút á phiện, chất thành đống và đã châm lửa đốt cháy đi. Quả là một cảnh tượng cảm động. Cảnh tượng của những người được rửa sạch tội lỗi, mở rộng cửa lòng để tiếp nhận Chúa Thánh Linh. Rất nhiều nhi đồng đến dự đại hội, sau khi được thúc giục xưng tội, chúng đã trưng ra những vật đã ăn cắp. Vô số những quả bóng, sách vở, nghiên bút… được hoàn trả.
Lúc ấy Chủ Ân mới lên chín. Tuy rằng ngày ngày đều đến nhà thờ nghe giảng nhưng chưa xưng nhận tội lỗi nên chưa nhận được sự sống mới. Cậu bé đã cảm nhận có một quyền năng đang thôi thúc khiến cậu không thể không đến nghe được.
Sau này, Tống Thượng Tiết đã tìm hiểu nguyên nhân sâu kín đã đưa đến cuộc phấn hưng: Thời gian trước đại hội tại Hưng Hóa có hai bà cụ bên Mỹ hết lòng kính yêu Chúa, họ đã khẩn thiết cầu nguyện cùng Chúa cho Hội Thánh tại Hưng Hóa. Một ngày kia trong khi cầu nguyện họ nghe thấy tiếng nói từ trên trời: “Sau ngày lễ Chúa chịu thương khó năm 1909, tại Hưng Hóa sẽ có cơn đại phấn hưng”. Họ bèn viết thư báo cho các vị giáo sĩ đang phục vụ tại đây. Thư chưa đến được Hưng Hóa thì ngọn lửa phấn hưng đã bùng cháy. Điều này minh chứng quyền năng của sự cầu thay. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết viết: “Trong suốt đời tôi, tôi luôn luôn muốn nhớ lại đại hội phấn hưng năm đó. Nó như một đồng cỏ xanh tươi mát, luồng gió của Thánh Linh thổi đến, những hạt giống tốt ở trong Hội Thánh đã lan tràn khắp nơi và nở ra những đóa hoa tươi thắm và kết những quả của sự sống đầy tràn.”
Cuộc phấn hưng tại Hưng Hóa là một bài học rất hữu ích và thiết thực đã hằn sâu vào tâm khảm cậu bé Chủ Ân. Sau này Tiến sĩ Tống Thượng Tiết thường áp dụng nguyên tắc của ngọn lửa Phấn Hưng Hưng Hóa trong suốt cuộc đời truyền bá Phúc âm của ông.
CHƯƠNG 6
MỤC SƯ CON (1912-1913)
Mặc dù đại hội bồi linh mùa hè năm 1909 đã qua đi, nhưng ngọn lửa phấn hưng vẫn còn bốc cháy và càng ngày càng lan rộng. Người tin Chúa ngày càng đông, Hạ đi, Thu đến, Đông qua, Xuân lại. Những người được Chúa đưa vào Hội Thánh tăng lên bội phần. Nhà thờ không còn đủ sức chứa. Mỗi ngày Chúa nhật, những nông dân khắp các làng mạc, từ già đến trẻ cùng mang một tấm lòng thành kính đi lên tỉnh thành để thờ phượng Chúa. Một nhà thờ vốn chỉ có sức chứa bốn hay năm trăm tín hữu, nay phải chứa đến hai hay ba ngàn tín hữu không phải là một công việc của một sớm một chiều. Để giải quyết vấn đề ban tổ chức phải sắp xếp các tín hữu từ các nơi đến, tùy theo xa gần, mà chia thành từng buổi thờ phượng sáng, trưa, chiều. Như vậy những tín hữu phải băng ngàn vượt suối cũng có cơ hội để về nghe giảng và thờ phượng Chúa. Một ngày phải chia làm ba xuất thờ phượng là một phương thức hay để giải quyết nan đề. Nhưng cách giải quyết ấy quá nhọc mệt cho Mục sư Tống Học Liên.
Cũng may là lúc ấy Chủ Ân lên 12 tuổi và đã giúp đỡ được đôi phần cho cha. Trên thực tế, cậu đã đóng vai trò chấp sự lâm thời của Hội Thánh. Sau một năm, một nhà thờ mới trong mơ ước đủ sức chứa hai, ba ngàn tín hữu đã trở thành thực sự. Khánh thành ngôi giáo đường mới, rồi Tống Mục sư lại càng năng nổ hơn nữa vì ông thật sự cảm nhận sự hiện diện của Chúa. Những thân hào nhân sĩ trong xã hội thấy sự phát triển kỳ diệu của Hội Thánh cũng đã có một cái nhìn khác hẳn. Tri huyện của huyện Hưng Hóa khi có những việc khẩn cấp đều đến với Tống Mục sư nhờ giúp ý kiến. Tuy danh tiếng và uy tín với xã hội ngày càng lớn, gia đình họ Tống vẫn nghèo như xưa. Lúc ấy, Tống Chủ Ân đã lên mười ba, vừa đi học ở trường trung học vừa giúp cha trong việc phục vụ Chúa tại Hội Thánh. Ngoài việc phát truyền đạo đơn, bán các sách Phúc âm, cậu Chủ Ân cũng nhiều lúc theo cha vào những làng mạc chung quanh để truyền giảng Phúc âm. Nhiều khi cha bị đau ốm hoặc phải lên tỉnh thành, cậu thay thế cho cha trong việc thờ phượng buổi tối. Dưới sự chứng kiến của vài trăm người, vị “tiểu Mục sư” mười ba tuổi này, đầy quả cảm, lên bục giảng đạo. Chẳng những thế, cậu không tỏ ra một chút gì lúng túng hấp tấp, nói năng gọn ghẽ khúc triết, thật là một điều đáng quý.
Mỗi năm mùa hè đến là dịp tiện tốt để Chủ Ân hầu việc Chúa. Ánh nắng hè gay gắt không khiến cậu nào lòng. Dưới những bóng mát cây xanh, cậu thường làm chứng cho thân hữu đường lối cứu chuộc của Chúa đối với tội nhân. Những người nghe cảm động ăn năn tin theo Chúa cũng khá nhiều. Điều đó khích lệ, cậu càng hăng say hơn trong sự hầu việc Chúa. Lắm khi cậu đã giảng dưới trời nắng chang chang, mồ hôi nhễ nhãi tràn qua cả chán mày, chảy vào mắt, xót đến độ không thể mở mắt được. Nhưng cậu cũng chẳng quan tâm, lâu lâu dùng hai tay áo lau trán, rồi lại tiếp tục làm chứng về Chúa. Có lắm khi say mê giảng Phúc âm cậu đã quên cả nhọc mệt, quên cả ăn uống.
Mùa hè năm nọ, cậu đến một ngôi làng xa để dạy Kinh Thánh cho gần hai trăm nhi đồng. Một lần khác cậu đến truyền giảng ở Tỷ Cang Trấn, thuộc vùng cao nguyên có chừng sáu chục người hối cải tin nhận Chúa. Cũng vì nóng cháy hầu việc Chúa như vậy nên Chủ Ân đã có biệt danh “Mục sư con”. Âu đó cũng là cách xưng tụng đúng với ý nghĩa. Nhưng sau này hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết cho đó chỉ là những nông nỗi tuổi trẻ, không có sức sống của Chúa. Dụng ý chỉ là muốn nâng cao chính mình, thoả mãn lòng hiếu thắng, đem vinh dự về cho cha mà thôi.
CHƯƠNG 7
TỐNG ĐẠI ĐẦU
Tống Chủ Ân khi mới sanh đã có một cái đầu lớn khác thường. Lớn lên đi học, tất cả các cỡ mũ nón trong tiệm không có cái nào Chủ Ân có thể đội vừa. Nhưng điều này cũng chẳng có gì quan trọng, vì nếu có một cỡ mũ nào vừa, thì gia đình cũng chẳng đủ tiền để mua. Biện pháp giải quyết tốt nhất là Chủ Ân đã để tóc thật dài rồi quấn quanh sọ thành một cái mũ thiên nhiên. Đầu đã lớn lại không cắt tóc nên nhìn lại càng lớn hơn. Các bạn đồng lức đã dành cho Chủ Ân biệt danh là “Đại Đầu”. Mới đầu cả gia đình chẳng ai thích hỗn danh này, nhưng được gọi mãi cũng chẳng phải chịu.
Đầu to chẳng những là một dị tướng, mà tâm hồn Chủ Ân cũng rất khác thường. Đầu to, một phần cũng là do di truyền. Mục sư Tống Học Liên có một cố tật là nóng tính, khi cơn giận nổi lên thì la hét, mặt tái như chàm, ai nhìn thấy cũng bắt sợ và tìm cách lấn xa. Tống “Đại Đầu” đã thừa hưởng tánh xấu ấy khi người cha dạy dỗ hơi quá đáng thì “Đại Đầu” cũng không chịu nhịn. Một lần kia vì một chuyện nhỏ mà “Đại Đầu” xúc phạm đến thân sinh. Bị cha phạt, “Đại Đầu “ bực tức và trốn mãi trong gầm giường. Sau một thời gian khá lâu người nhà đi tìm đâu cũng chẳng thấy, ai nấy đều rất sợ hãi. Trước đã có một lần, tranh cãi với cha, bị cha mắng và phạt, “Đại Đầu” làm bộ nhảy xuống giếng đòi tự tử để dọa cha. Biết đâu lần này lại chẳng xảy ra sự thật? Mãi cho đến khuya Tống “Đại Đầu” mới từ gầm giường bò ra, người nhà mới thở phào trút hết lo âu. Lại một lần nữa, Đại Đầu đã làm cha phiền giận. Bị quở mắng, cậu la thét phản đối và dùng đầu húc vào một lu nước thật lớn, lu nước vỡ tan, nhưng đầu “Đại Đầu” không hề hấn gì. Với một nết xấu như vậy nên Chủ Ân rất thường bị đòn vọt của cha. Một lần kia, sau khi đã cho con một trận đòn nên thân, Tống Học Liên yên lặng vào trong thư phòng. Sau khi bị đòn “Đại Đầu” cũng hiếu kỳ muốn biết cha mình vào thư phòng để làm gì. Qua khe hở, cậu ghé mắt nhìn lén vào phòng thì thấy cha đang úp mặt nức nở khóc. Chủ Ân không chịu đựng nổi nên chạy vào và hỏi cha: “Cha ơi, cha đang làm chi đó, tại sao con bị đòn con không khóc mà cha lại khóc?” Tống Học Liên trả lời: “Đó là lòng thương con mà cha phải phạt con. Chúa yêu chúng ta còn hơn thế nữa!”
Sống trong bầu không khí đạo đức và gia phong như vậy, tuy thỉnh thoảng cũng có tranh cãi to tiếng, nhưng điều quan hệ là trong gia đình rất hài hòa.
Những buổi sáng xuân hồng, những chiều trăng thu, Tống Mục sư không quên đưa các con đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh, thưởng lãm những tác phẩm tuyệt vời của Thượng Đế trong thiên nhiên. Cậu bé Chủ Ân đặc biệt thích cùng cha lên núi để cầu nguyện.
Cả một tuổi thơ Tống Thượng Tiết được lớn lên trong một gia đình nho phong, đạo hạnh như vậy nên đã có một ảnh hưởng sâu đậm và một ấn tượng không thể nhạt phai trong ký ức.
CHƯƠNG 8
TUỔI TRUNG HỌC (1913-1917)
Tống Thượng Tiết đã thừa hưởng tính đam mê sách vở của cha. Cần kiệm được chút tiền, Tống Học Liên chỉ dùng vào việc mua sách báo, Tống Thượng Tiết triệt để tán thành cha trong việc này. Cậu xin cha đặt mua các loại nguyệt san, tạp chí. Người chống đối triệt để việc mua sách là bà Mục sư. Gia đình quá nghèo, tiền lương ít ỏi, con cái lại đông. Bà cho rằng đem tiền đi mua sách là phí phạm.
Gia đình Tống Học Liên có thiết lập một thư viện tuy đơn sơ nhưng rất tao nhã. Đó chính là nơi đã chiếm nhiều thì giờ trong ngày của Tống Thượng Tiết. Bất luận là sau công việc hay sau giờ tan học ở trường, bóng dáng của cậu lúc nào cũng loay hoay trong thư phòng. Cậu từng nói: “Đọc sách báo là tâm sự với những người bạn tri kỷ”. Cậu đã đọc những tiểu thuyết cổ cũng như kim văn, những truyện ký của những danh nhân, ngay cả những tạp chí phụ nữ. Các bạn bè chế giễu, nhưng cậu chẳng quan tâm mà trả lời họ: “Miễn là sách báo thì tôi đọc!” Tống Thượng Tiết đắm chìm say mê trong sách báo.
Mục sư Tống Học Liên đọc báo thấy Trường Hải Quân Phước Châu đăng thông cáo tuyển sinh viên, ông hằng khuyến khích con nộp đơn thi vào hải quân. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng: “Trường Hải Quân chắc cũng giống như những trường võ bị khác. Một khi đã thi đậu rồi thì họ sẽ đài thọ tất cả trong suốt thời gian theo học. Nếu mình thi đậu thì cũng bới cho gia đình một gánh nặng. Các môn thi thì chỉ cần đầy đủ sức khỏe và Hán văn. Hai môn này thi cũng dễ thôi”. Thầy giáo cũng như bè bạn cậu đều khuyến khích, vì họ tin chắc rằng cậu sẽ thi đậu chẳng mấy khó khăn. Nhưng mới vòng đầu khám sức khỏe chân của cậu bỗng nhiên bị sưng. Theo thể lệ đã không đủ tiêu chuẩn sức khoẻ thì Hán văn có xuất sắc đến đâu cũng bị loại! Học sinh trong trường có nhiều người ứng thí nhưng chỉ có hai người trúng tuyển. Họ rất lấy làm hãnh diện về thành quả này. Nhưng thương thay, có ai biết được tương lai mình. Hai chàng sĩ quan hải quân này chẳng bao lâu kẻ trước người sau đã tử trận. Những ước vọng thăng quan tiến chức, dĩ nhiên cũng cùng hai chàng đi vào cát bụi. Việc có ai ngờ được. Sau này hồi tưởng lại Tống Thượng Tiết đã tạ ơn Chúa không xiết kể.
Không trúng tuyển trường võ bị hải quân. Cậu học lại trường cũ, và tiếp tục làm mọt sách. Lúc ấy Trung Hoa Dân Quốc mới thành lập. Để tưởng nhớ những tháng năm sỉ nhục, kỷ niệm những mối quốc hận, và khuyến khích lòng yêu nước của toàn dân, nhà trường đặt ra rất nhiều ngày lễ nghỉ. Tuy không có giờ học nhưng cậu vẫn đến trường, trong những lớp học thênh thang, vắng lặng chỉ một mình mình yên tĩnh ngồi đọc sách. Bạn bè cùng trường, cùng lớp đều cho cậu là người thiếu nhiệt huyết, thiếu lòng yêu nước. Họ thường chế giễu cậu và thậm chí có người đã cho cậu những biệt danh như “loài động vật có máu lạnh”. Cậu vốn là người cần mẫn, hiếu học nên chẳng để tâm đến những chuyện vụn vặt ấy.
Ở tuổi trung học rồi mà cậu vẫn chưa không chú tâm đến áo quần cũng như diện mạo của mình. Một phần vì tính hiếu học, một phần tình trạng kinh tế gia đình quá eo hẹp. Muốn chưng diện như bạn bè cũng chẳng lấy đâu ra tiền. Cho nên suốt thời trung học, cậu luôn là bạn thiết của chiếc áo ngắn và đi chân đất. Lần đầu tiên cậu được mặc áo dài là ngày tốt nghiệp trung học. Cậu ra trường với hạng tối danh dự. Để khuyến khích con, và cũng để con khỏi mất mặt với bạn bè, Tống Mục sư đã mua một tấm lụa nhiễu xanh may cho cậu một chiếc áo dài. Đó là chiếc áo đại lễ, cũng là chiếc áo dài mà Tống Thượng Tiết được mặc lần đầu tiên trong đời.
CHƯƠNG 9
THỜI GIAN TRƯỚC KHI DU HỌC
Sau khi tốt nghiệp trung học, việc tiếp tục sách đèn là cả một vấn đề cho gia đình. Tống Thượng Tiết dự định lên thủ đô Nam Kinh vào đại học Kim Lăng. Để chuẩn bị hành trang cho ông, mẹ và chị cả đã lo may áo quần, sắm sửa vật dụng. Trong khi đó thì ông cũng đang có hai công việc là dịch sách và xuống các làng mạc để truyền giảng Phúc âm. Mục sư Tống Học Liên viết nhật ký rất chuyên cần. Tống Thượng Tiết thừa hưởng thói quen này và ông bắt đầu viết nhật ký vào năm 1917. Cũng như cha, ông viết nhật ký rất chuyên cần, cơm có thể quên ăn, nhưng nhật ký thì không bao giờ có thể quên viết. Những cộng sự viên của ông sau này đều xác nhận, cho dù bận rộn đến đâu, mỗi ngày ông ít nhất cũng dành ra một giờ để ghi nhật ký. Ông ghi chữ rất nhỏ, liên tục ghi lại tất cả những chi tiết của đời mình cho đến khi qua đời, không thiếu sót một ngày nào. Đó là những tài liệu quý báu và chính xác, nhưng tiếc thay chính tôi là tác giả “Cuộc Đời Tống Thượng Tiết” này cũng chưa được hân hạnh đọc quyển nhật ký ấy.
Thời gian còn ở trung học, ngoài việc viết nhật ký và lo soạn bài vở của nhà trường, ông đã phụ giúp cha dịch sách báo và viết bài cho tạp chí Phấn Hưng. Ông phụ trách chủ biên nhiều tạp chí trong trường, gửi bài đăng trên nhiều tạp chí địa phương. Thay cha phụ trách chủ biên tờ Phấn Hưng Báo không phải là việc quá sức và xa lạ với ông. Anh rể của ông cũng là người uyên thâm Nho học nên đã giúp ông rất nhiều trong công việc báo chí. Ngoài việc làm báo, ông còn có kế hoạch truyền giảng Phúc âm cho đồng bào tại các làng mạc. Kế hoạch này được các vị giáo sĩ tây phương tán trợ. Ông kết hợp cùng những thanh niên đồng tâm tình, mỗi tuần đi vào các thôn làng, trường học, tiếp xúc với các giáo viên xin phép, để cùng các bạn truyền giảng Phúc âm cho các học sinh. Ông kể những câu truyện trong Thánh Kinh, dạy họ hát Thánh ca tôn vinh Chúa. “Đoàn truyền giáo” cũng dạy cho học sinh những trò vui tươi tao nhã, và tặng cho họ những tấm hình mang ý nghĩa về sự tích Thánh Kinh…
Một ngày kia, đang khi hăng say truyền giảng trong các làng xa thì ông được điện tín báo cho biết là người chị cả bị bịnh dịch tả cấp tính đã lìa đời chỉ trong vòng ba, bốn tiếng đồng hồ. Cái chết của chị là một thách thức rất lớn đối với ông. Chương trình dự định lên thủ đô vào đại học Kim Lăng coi như gẫy đổ.
Mỗi buổi sáng, ông một mình lên ngọn đồi gần nhà. Trong cái tịch mịch của thiên nhiên, cô đơn cầu nguyện xin Chúa cho được kinh nghiệm tái sanh. Những cơn gió thoảng trong cây lá, những khóm hoa tươi thắm, tất cả như muốn hướng dẫn ông truy tầm cho bằng được những linh ân từ thiên thượng. Một hôm, ông nhớ lại lời nói của cha: “Cha được tái sanh là nhờ đọc Thánh Kinh thơ La-mã và Phúc âm Giăng”. Ông bắt đầu đọc hai Kinh sách này. Đọc đi đọc lại đến mấy mươi lần, nhưng ông cũng chẳng thấy có gì đổi mới. Ông bóp trán suy tư: Phải đi vào con đường khổ tu để khắc phục thân xác chăng? Nhưng ông cũng chẳng cảm thấy nhận thêm được những gì mong ước. (Lúc ấy ông chưa ý thức được sức sống mới đến từ Chúa Thánh Linh, và thời điểm đó phải do Chúa kiểm sóat và định đoạt chứ không phải do nơi ý muốn của con người).
Tuy rằng kế hoạch vào đại học gần như gẫy đổ do cái chết của người chị cả, nhưng ý chí và tinh thần hiếu học của ông không gì cản nổi. Vấn đề khó khăn là lúc ấy những biến chuyển chính trị đang bị khơi động khắp nơi. Nhất là các trường học, các sinh viên thường sách động bãi khóa. Nếu không bãi khóa thì sinh viên cũng chẳng còn tinh thần mà học hành. Giáo sư, sinh viên ai cũng muốn tham gia chính trị, không mấy ai còn nghĩ đến chuyện học hành hay dạy dỗ. Mọi nơi, mọi trường đều bế tắc như nhau! Tống Thượng Tiết nảy ra ý định du học nước ngoài. Ý định này thật là xa vời. Hoàn cảnh gia đình túng quẫn. Vào một đại học ở thủ đô Nam Kinh đã là một gánh quá nặng cho gia đình, làm sao có thể nghĩ đến việc xuất ngoại du học? Do đó khi ông đem ý định này ra bàn với cha thì liền bị cha quở trách: “Đừng có mơ mộng hão huyền, con tưởng cha có nhiều tiền của để con có thể ra nước ngoài tiến thân mưu tìm danh vọng sao? Con không biết cha là ai sao? Cha chỉ là một Mục sư nghèo!” lời quở trách này cũng không làm cho Tống Thượng Tiết buồn. Cha trên đất không ủng hộ, thì cầu Cha trên trời vậy. Ông bèn lên núi, trình xin với Cha trên trời ý nguyện du học nước ngoài. Ông cũng trình bày rõ là xuất ngoại du học là để suốt đời phục vụ Chúa. Ông kiên nhẫn cầu nguyện như thế khoảng một tuần. Quả thật Cha trên trời là Đấng quyền năng có đầy đủ biện pháp. Ông nhận được một thư của Miss Kans do một giáo sĩ Tây phương trao lại. Trong thư cô tỏ ý là có nghe Tống Thượng Tiết có ý định muốn xuất ngoại du học, nhưng vì tình trạng kinh tế gia đình eo hẹp, nên không thể thực hiện được ý nguyện. Cô cũng biết Tiết là một thanh niên hiếu học, nên cô tình nguyện giúp đỡ bằng cách viết thư cho trường Ohio Wesleyan University, tại thành phố Delaware. Cô xin trường cho Tiết một học bổng và cũng hứa rằng sau khi Tiết đến Hoa Kỳ, cô sẽ giúp tìm cho một việc làm bán thời gian để có thể vừa học vừa làm.
Nhận được bức thư này ông hết lòng cám ơn Chúa. Vừa múa tay chân, vừa sung sướng báo tin mừng cho cha, nhưng Tống Mục sư vẫn nhẹ nhàng bảo: “Cha quả tình không có khả năng để cho con xuất ngoại du học. Con phải biết là cha làm người truyền đạo hơn 30 năm nay, tất cả tiền dành dụm chưa tới một trăm đồng! Cho dẫu là cha mẹ cho con tất cả thì cũng chưa đủ được nửa tiền cước phí! Gia đình ta thì phải xoay trở cách khó khăn, cha thật hết lòng mong con đi du học, nhưng khả năng hoàn toàn bị hạn chế”. Những lời tâm sự hợp tình hợp lý của cha, chẳng khác nào một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Suy nghĩ mông lung, ông lại trở lên núi để cầu xin thêm sự tiếp trợ của Cha toàn năng. Những bạn học cùng tốt nghiệp với Tống Thượng Tiết, có người đã đi làm, cũng có người đã ra giữ chức vụ truyền đạo. Họ là những học trò của Mục sư Tống Học Liên. Nghe bạn có chí đi du học, với ý định sau khi tốt nghiệp trở về nước để lo hầu việc Chúa, họ rất vui mừng. Họ cũng biết gia đình Tống Mục sư không đủ khả năng tài chánh, nên đã hết lòng vui vẻ hùn nhau lại kẻ ít người nhiều cho bạn mượn để làm lộ phí. Góp gió thành bão, chẳng mấy chốc đủ tiền mua vé tàu.
Ai cho mượn bao nhiêu, Tống Thượng Tiết đều ghi vào sổ rõ ràng, định bụng sau này khi đến Mỹ, tìm được việc làm, ông sẽ dành dụm gửi về trả nợ dần cho bạn bè.Đúng lúc mua vé tàu thì đồng mỹ kim xuống giá nên số tiền bạn bè góp lại cho mượn, chẳng những đủ để mua vé tàu mà còn dư để may được một bộ âu phục, và mua một số hành trang cần thiết trước khi lên đường. Tống Thượng Tiết ra đi nhằm mùa Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 1919. Trong chuyến đi ấy cũng có bảy sinh viên cùng quê với ông.
CHƯƠNG 10
VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG
Ngày Tống Thượng Tiết rời quê hương Hưng Hóa lên đường xuất ngoại nhằm lúc Tống Mục sư có việc gấp phải ra tỉnh thành nên không có dịp tiễn đưa. Chỉ có mẹ ở nhà, bà đã âu yếm nắm lấy tay con dặn dò và trao gửi những lời tâm huyết. Người anh đưa tiễn ra tận bến tàu và giúp đỡ những việc cần thiết. Tuổi trẻ, lần đầu tiên xa gia đình, xa quê hương, Tống Thượng Tiết không tránh khỏi bịn rịn, lưu luyến. Nhưng niềm hy vọng như vầng dương rực sáng đưa lối dẫn đường, nên nỗi buồn biệt ly cũng sớm được xua tan. Qua vài ngày chiếc tàu nhỏ đã đến Thượng Hải, một thành phố tráng lệ, xa hoa. Bảy người bạn đồng hành của ông đều là con của những gia đình giàu có, nên thời gian chờ đợi ở Thượng Hải mặc sứ cho họ ngày ngày đi đến những chốn ăn chơi, đi xem xinê, đến các hí viện… Riêng ông thì không bước ra khỏi phòng của khách sạn. Chẳng những không đến những nơi du hí, mà ngay cả những cửa hàng danh tiếng như hãng Sincere và hãng Vĩnh An, ông cũng không đặt chân đến. Suốt ngày ở trong khách sạn đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, đọc sách báo, viết nhật ký, không có gì khác hơn những sinh hoạt thường ngày sống trong gia đình ở quê nhà. Vào ngày mưa, bảy chàng sinh viên con nhà giàu đó không ra ngoài đi du hí được, họ đem Tống Thượng Tiết ra làm đề tài giễu cợt chê ông là một người quê mùa.
Thật ra thì Tống Thượng Tiết cũng đã từng tuyên bố: “Tôi vốn quê mùa, không biết đến các lạc thú của kinh thành”. Ông nghĩ đến tiền lộ phí là do vay mượn mà có thì làm sao phung phí, tiêu xài như những con nhà giàu kia được. Ngày 20 tháng 3, chiếc tàu Nero, nhổ neo hướng về Mỹ quốc. Để không bị nhìn như những người đi lao động khổ sai khi nhập cảnh Mỹ quốc, buộc lòng Tống Thượng Tiết phải mua vé tàu thượng hạng với giá $240.
Khi con tàu vào hải phận quốc tế thì bắt đầu lắc lư theo nhịp sóng. Tất cả những bạn đồng hành đều bị say sóng, riêng ông rất tỉnh táo, một mình lên boong tàu. Biển xanh bao la, bầu trời lồng lộng quang đãng, lòng ông lúc nào cũng khấp khởi mừng vui, luôn ca ngợi Đấng sáng tạo nên vạn vật và vũ trụ này. Những buổi chiều xuống, ông đi dạo trên boong tàu, nhìn cảnh mặt trời lặn chìm trong sóng biển nhấp nhô xanh biếc, áng chiều tạo thành những thảm gấm tuyệt vời trên không trung. Tựa vào thành tàu nhìn cảnh hùng tráng của mặt trời chiều trên đại dương mà hai dòng nước mắt tuôn trào. Không phải vì cô đơn xa nhà, xa quê hương, cũng không phải vì chia ly tình phụ mẫu, huynh đệ, cũng không phải ưu tư về tương lai mịt mờ, nhưng vì nghĩ đến bao nhiêu ân điển rộng lớn của Thiên Chúa mà ông tuôn dòng lệ ấm.
Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo khó nên khi ở trong phòng thượng hạng của con tàu chở hành khách này là dịp ông được sống những ngày chưa bao giờ được hưởng trong cuộc đời. Bảy người bạn đồng hành vì say sóng nên không thể dậy để dùng bữa. Một mình ngồi trên bàn ăn dành cho 8 khẩu phần, ông tha hồ chọn những thức ăn mình ưa thích. Ngoài ra còn có hai người bồi phòng hầu hạ trong suốt thời gian lênh đênh trên biển.
Sau khi đến Mỹ quốc, giá vàng bỗng lên cao. Tống Thượng Tiết bán số vàng còn lại trị giá được $246. Ông chỉ để lại $6 cho mình làm phí tổn, số còn lại gửi về cho cha để trả nợ cho bạn bè. Thật kỳ diệu, khi ra khỏi nước thì giá vàng xuống, nay đến đất Mỹ thì giá vàng lại lên cao. Số tiền $240 chẳng những thanh toán xong nợ nần, mà lại còn dư. Thật đáng ngợi khen Chúa vì sự sắp đặt của Ngài!
Trả xong nợ nần, Tống Thượng Tiết đề nghị người anh cũng nên qua Mỹ học.
CHƯƠNG 11
TRƯỚC VÀ SAU KHI VÀO TRƯỜNG ĐẠI HỌC (1919-1921)
Khi đến Mỹ, Tống Thượng Tiết cảm thấy một nỗi cô đơn xâm chiếm. Nhất là tiếng Anh chưa thông thạo, phát âm không chính xác, đi đến đâu cũng gặp khó khăn. Thứ đến là cuối thánh Tư mới nhập học ở Tiểu bang Ohio. Sau khi hỏi thăm mới biết Miss Kans đang ở Bắc Kinh chưa về Mỹ nên không tìm được ai quen biết. Trường Wesleyan University thật có dành cho Tống Thượng Tiết một học bổng, nhưng ông không thể ở ký túc xá nhà trường ngay được. Mướn phòng ở ngoài thì mỗi ngày phải tốn một Mỹ kim, mà trong túi chỉ còn có 6 đồng. Làm sao có thể kham nổi?
Cách giải quyết duy nhất là phải tìm một việc làm. Nhưng tìm việc không phải là dễ nơi đất lạ quê người. Trong rừng người mênh mông đó, biết xin việc với ai, mà xin việc gì đây? Lúc cùng đường thì ông gặp được người thư ký của hội YMCA. Muốn nhờ ông ta giúp đỡ nhưng vì tiếng Anh nói chưa thông nên người thư ký ấy không hiểu Tiết muốn gì. Đến với con người để xin và nhờ cậy chẳng được chi, Tiết trở lại xin với Thiên Chúa. Ngài bèn sắp xếp cho ông được làm ở một tiệm bán vải, lau sàn nhà, chùi cửa kiếng, lương mỗi giờ là một đồng. Theo quan niệm của người Á đông, nhất là người Trung Hoa, đó là một việc rất thấp kém trong xã hội. Do đó ông rất sợ phải lau những cánh cửa ngoài mặt tiền. Sợ những bạn người cùng trang lứa bắt gặp, nhất là những thiếu nữ đi ngang cửa tiệm. Về sau ông tìm được một việc ban đêm tại hãng Westinghouse, mỗi giờ được 45 xu, mỗi đêm làm 11 giờ, mỗi tuần làm năm ngày rưỡi thì được 27 đồng. Trừ tiền ăn ở, số còn lại cũng chẳng được bao nhiêu. Mỗi thánh tính ra chỉ còn khoảng 80 đồng, không đủ để chi tiêu sau khi tựu trường.
Tống Thượng Tiết tiếp tục cầu nguyện và tin tưởng Chúa toàn năng chắc chắn đã có một chương trình cho mình. Trong khi làm việc trong nhà máy, ông thường hát những bài hát Trung Hoa để giải khuây. Những công nhân cùng hãng, trắng cũng như đen đều lắng tai nghe, họ rất thích thú và không thấy mệt mỏi khi làm việc. Một ngày kia, những điệu nạhc ấy lọt vào tai của ông giám đốc. Ông ta mời Tống Thượng Tiết về nhà và yêu cầu hát một ca khúc Trung Quốc. Sau khi hát, ông ta rất thích thú, hai người bắt đầu chuyện trò để hiểu nhau hơn. Ông giám đốc hỏi lý cớ nào mà chàng đến Mỹ. Tiết cung kính tâm sự “Tôi vốn là một Cơ đốc nhân, ao ước đến Mỹ để học, sau khi thành đạt trên đường học vấn tôi sẽ về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm. Nhưng hiện nay vì hoàn cảnh khó khăn cho nên phải xin việc làm để tự lập và dành dụm tiền học cho cả niên khóa. Viên giám đốc kiên nhẫn nghe hết câu chuyện Tiết kể, ông suy nghĩ giây lâu rồi nói: “Bây giờ tôi có thể giao cho anh đứng máy cắt thép số 93, tiền lương mỗi giờ là $1. Nhưng công việc ấy khá nguy hiểm, máy cắt thường tiện đứt chân tay những người điểu khiển nó”. Viên giám đốc chưa dứt lời thì Tiết đã vui xin nhận việc đó.
Mùa hạ trôi qua, Tống Thượng Tiết dành dụm được đúng $600, đủ tiền cho lục cá nguyệt đầu của năm học. So với các bạn đồng lứa thì chưa ai có lương cao như vậy. Ông tin quyết rằng đó là phần thưởng Chúa đã dành ban cho mình, để ông yên tâm trong việc học hành. Đức tin của ông còn được thể hiện qua nhiều việc khác nữa. Ngày tựu trường, Tống Thượng Tiết đến tìm và xin gặp ông giám học thỉnh cầu một việc thật dị thường: xin trong vòng 3 năm sẽ học hết những môn của Đại Học. Ông giám học nghe xong chỉ biết lặng yên nhìn Tiết mà lắc đầu: “Với trình độ Anh ngữ của cậu kém chưa chắc 5 năm nữa cậu đã học xong chương trình đại học”.
Sự thật hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ của ông giám học. Ngay kỳ thi đầu, Tiết đã có số điểm cao nhất lớp. Nhất là môn thiên văn học, nhiều sinh viên bị rớt vì dưới điểm trung bình, cũng có người lãnh điểm không. Riêng Tiết đã có số điểm rất cao, khiến mọi người phải ngạc nhiên thán phúc. Các vị giáo sư sau khi thảo luận với nhau đã nói với Tống Thượng Tiết: “Nếu cứ cố gắng, chắc sau ba năm anh có thể ra trường”.
CHƯƠNG 12
TRONG CƠN BẠO BỆNH VÀ NGHÈO NÀN (1921)
Năm 1921, sau thế chiến thứ nhất, nước Mỹ lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Nhiều nhà máy phải đóng cửa, công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Thế nên mùa hạ của niên học thứ nhì Tống Thượng Tiết đi tìm việc làm thật khó khăn. Đồng thời, anh của ông là Tống Thượng Liên cũng đã đến Mỹ để du học. Bản thân mình lo chưa xong lại còn phải lo tìm việc cho anh. Khó quá nhưng ông đã hoàn toàn tin cậy Chúa với cả đức tin của mình.
Quả nhiên, Chúa đã nhậm lời: chẳng những người anh có việc làm mà chính ông cũng đã tìm được 2 việc, một ở khách sạn, một ở nhà máy cán thép. Đây là một công việc vô cùng nặng nhọc, nhưng vì sinh kế và học phí, nên Tiết cũng phải ráng sức chịu đựng. Sau vài ngày làm việc, vì cố gắng quá sức, Tiết bỗng cảm thấy choáng váng, nhịp tim đập liên hồi, thân nhiệt lên cao quá độ và đầu đau nhức như búa bổ. Dầu vậy Tiết vẫn gắng gượng đi làm thêm hai ngày nữa nên bệnh lại càng thêm trầm trọng, buộc lòng phải xin nghỉ phép để vào bệnh viện. Khám nghiệm thấy trên mông của cậu có một mụn nhọt lớn. Bác sĩ cho biết nếu không giải phẫu thì có thể nguy hiểm đến tính mạng. Thật là một nan đề, làm sao có tiền để trang trải sở phí bệnh viện, thuốc men và nhất là tiền giải phẫu của bác sĩ đây? Cuối cùng ông từ chối giải phẫu, rời bệnh viện và chỉ còn biết bám vào lòng thương xót của Chúa. Nếu Ngài muốn ông chết, thì ông xin tuân phục, chứ không thể đào đâu ra tiền để thanh toán tổn phí bệnh viện và bác sĩ.
Sau mấy ngày, cơn đau nhức lại hành hạ thể xác. Tiết không sao chịu đựng nổi. Bạn bè thúc giục, nài nỉ, cậu đành phải trở lại bệnh viện để chịu giải phẫu, còn chuyện tiền bạc thì hạ hồi phân giải. Trước khi vào phòng giải phẫu, cậu xin y tá giấy bút để viết cho cha một bức thư cuối cùng, vì nghĩ rằng, có thể mình không qua được cơn giải phẫu. Khi không còn một vương vấn nào nơi trần gian, Tống Thượng Tiết thấy tâm tư mình nhẹ nhàng thanh thoát, hoàn toàn nương mình trong cánh Chúa.
Khi thuốc mê đã hết tác dụng, Tống Thượng Tiết dần dần hồi tỉnh, ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là: “Lấy đâu ra tiền để trả bệnh viện?” Dầu chàng được một y tá đầy kinh nghiệm, niềm nở chăm sóc bệnh nhân, lại cũng là một con cái Chúa, nhưng không thể đưa chàng ra khỏi vòng suy tính số tiền phải trả bệnh viện.
Một ngày nọ, Tống Thượng Tiết đang tựa lưng trên giường bệnh, đang lo âu cho số phận không may của mình thì có một nhóm thanh niên ào vào phòng… Người thì mang hoa tươi, kẻ thì xách cây trái, ai nấy đều cười nói vui vẻ, rối rít thăm hỏi bệnh tình. Họ là những thanh niên của Hội Thánh mà Tiết thường đến thờ phượng chung. Có cả ông Mục sư quản nhiệm Hội Thánh nữa. Tống Thượng Tiết vô cùng xúc động trước tấm thịnh tình nồng hậu đó, không cầm được hai dòng nước mắt hạnh phúc. Một mối tình ruột thịt trong Cứu Chúa đã dâng trào trong họ và tình thương của Ngài đã san bằng biên giới quốc gia, chủng tộc.
Sau những giây phút mừng vui thăm hỏi ân tình ấy, thì thực tại tiền bạc lại trở về quấy phá. Tuy vết thương chưa lành hẳn nhưng ông nghĩ rằng nên xuất viện càng sớm càng tốt. Thời gian dưỡng bệnh sau giải phẫu đáng lý là một tháng, nhưng mới hai tuần ông đã rời bệnh viện. Khi ông từ biệt bác sĩ để ra về, ông cảm thấy thật xấu hổ vì không có tiền để thanh toán cho bệnh viện. Xót thương cho hoàn cảnh nghèo túng của mình, ông không cầm được hai dòng nước mắt.
Vị bác sĩ đầy kinh nghiệm chứng kiến cảnh ấy, biết được tâm trạng thầm kín khó nói của chàng, nên đã vỗ vai và an ủi: “Người bạn trẻ ơi, đừng quá bận tâm về tiền bạc. Bệnh viện chỉ lấy 80% số tiền phí tổn, và số tiền ấy cũng chỉ có $30 thôi. Vả chăng cũng đã có một tín hữu hảo tâm được Chúa Thánh Linh thúc giục đã thanh toán xong số tiền ấy rồi. Bây giờ bạn có thể ra về mà khỏi phải bận tâm. Cầu xin Chúa ban phước lành cho bạn”.
Nghe xong những lời ấy của bác sĩ, Tống Thượng Tiết cảm thấy như gánh nặng ngàn cân vừa cất khỏi vai mình. Ông có cảm tưởng như có thể nhón nhẹ gót là đụng đến trần nhà, lòng tràn đầy vui sướng và cảm kích, không ngớt cám ơn Chúa và vị ân nhân ẩn danh đó. Ông khập khiễng bước ra khỏi bệnh viện. Vết thương đó đã không bao giờ khỏi hẳn suốt cuộc đời ông. Thỉnh thoảng nó khiến ông đau đớn, nhức nhối khó chịu. Về sau, chính ông đã tâm sự: “Nhiều khi tôi có nài xin Chúa cất bớt cho tôi sự đau đớn, nhưng Ngài không khứng nhậm lời. Tôi biết Chúa muốn dùng điều này để dạy dỗ tôi. Vì mỗi khi đau, nhức nhối là như một lời nhắc nhở: Tôi vốn một con người bất toàn, xấu xa, gian ác, kiêu ngạo và bất lực”.
CHƯƠNG 13
KHẢI TƯỢNG NĂM 1922
Mặc dù tình trạng sức khỏe rất yếu kém và tiền bạc thật eo hẹp, nhưng Tống Thượng Tiết vẫn không để nó ảnh hưởng trên việc học. Ngược lại, chàng càng cố gắng nhiều hơn nữa.
Thấm thoát một niên học nữa lại trôi qua, Tống Thượng Tiết vẫn chiếm ưu hạng. Một sinh viên ngoại quốc, công việc mưu sinh chiếm mất một nửa thời gian đèn sách, ấy thế mà ông vẫn đạt được thành quả rất tốt đẹp. Thật là một điều đáng kinh ngạc khiến nhiều người phải thán phục. Nhưng, ông thì cho rằng mình có được năng lực này là do sự ban cho từ trên cao.
Những ngày lễ nghỉ, ông tổ chức những cuộc truyền giảng, mời các bạn cùng trường, cùng lớp tham gia. Ra các vùng ngoại ô thành phố rao giảng Phúc âm cho người chưa biết Chúa. Dưới mắt nhìn của ông thì nông dân Mỹ là những người trung hậu, chất phác, hiền hòa. Họ cần được nghe Phúc âm và sống đời sống của Chúa Cứu Thế. Dân chúng vùng ngoại ô cũng rất thích được nghe những buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết tổ chức. Số người tin nhận Chúa ngày càng đông. Báo chí Mỹ bắt đầu chú ý và đăng tải những mẩu chuyện về các buổi truyền giảng đó. Tên tuổi của ông, trước kia được nhiều người biết đến qua những tạp chí tại huyện Hưng Hóa, nay bắt đầu xuất hiện trên các báo chí Mỹ.
Các Đoàn Truyền giáo Phúc âm, được các tín hữu trong những thôn làng câhn thành, nồng hậu tiếp đón và học cũng cung ứng cho đoàn mọi nhu cần thật chu đáo. Những tấm thịnh tình này khiến cho Tống Thượng Tiết thật vô cùng xúc động và ấm lòng. Một ngày kia, ông gặp một đôi vợ chồng, nếp sống tin kính của họ đã gây cho chàng một ấn tượng sâu sắc. Họ thật sự tôn Chúa Giê-xu làm chủ gia đình. Người vợ là một phụ nữ trầm lặng nhưng vui ve, lịch thiệp nói năng dịu dàng. Ông đã đặt cho bà này mỹ danh “Cây phong lan trong thung lũng tĩnh lặng”. Còn người chồng là một tín hữu trung kiên, có đời sống tâm linh sâu nhiệm Lời Chúa. Tiếp xúc qua một lần, Tống Thượng Tiết đã có nhận xét ông ta còn hơn cả những vị Mục sư hữu danh vô thực, không có sức sống của Chúa bên trong. Hai ông bà chỉ có một bé gái thật linh hoạt dễ thương. Điều khiến cho Tống Thượng Tiết chú ý hơn cả là mỗi tối trước khi đi ngủ, cô bé đều quì gối cầu nguyện bên giường.
Lễ Tạ Ơn năm nọ, dân chúng làng Smithview mời đoàn truyền giáo Phúc âm của Tống Thượng Tiết đến truyền giảng. Đêm ấy, sau khi truyền giảng xong, đoàn tá túc trong gia đình của một tín hữu. Cũng chính đêm ấy Chúa cho ông một khải tượng kỳ diệu, và ông tin quyết rằng điều mà Chúa cho ông thấy thì Ngài cũng muốn ông phải thực hiện. Trong giấc ngủ mơ màng, ông thấy mình đang lang thang trên một vùng đồi núi, cảnh trí giống hệt như miền đông tỉnh Hưng Hóa, nơi ông thường tới lui để cầu nguyện khi còn ở quê nhà. Đang chìm đắm trong suy tưởng của tịch mịch núi đồi, bỗng ông nghe những tiếng kêu cứu thất thanh từ dưới đáy vực vang lên. Từ trên cao nhìn xuống, ông thấy một dòng suối cuồn cuộn chảy, và xa xa có những người đang chới với, kêu van vì sắp chết đuối. Tống Thượng Tiết băng mình xuống triền núi để kịp thời cứu họ, đường đi thật gập ghềnh, hiểm trở, bụi hoang và gai góc giăng mắc khắp lối. Khi ông đến được chân núi thì mình mẩy mang đầy thương tích, máu me tuôn ra xối xả. Đứng trên bờ, nhìn con suối nhỏ, nước suối từ từ dâng lên, lan rộng mãi ra, biến thành một dòng sông lớn, rồi lớn mãi thành một đại dương bao la. Trong đại dương ấy lố nhố đủ mọi loại hạng người, mọi chủng tộc, mọi sắc dân… Họ đang chới với, đắm chìm và cất lên những tiếng kêu cứu thật bi thương thê thảm. Nhìn qua bên kia đại dương chỉ thấy mịt mùng, không bờ, không bến. Dưới lòng đại dương bỗng dâng lên những cơn sóng cuồng nộ, giận dữ như muốn cuốn phăng cả đám người đáng thương ấy đi. Ông cố gắng tìm hết mọi phương cách để cứu những con người vô vọng đó, nhưng vô phương. Trong lúc bó tay chưa thể nghĩ ra được một phương cách cứu vãn, tiếng kêu than vọng lên càng lúc càng khẩn khoản, bi ai. Nóng lòng muốn cứu họ, Tống Thượng Tiết vô cùng bối rối, ông khẩn nguyện cùng Cứu Chúa: “Chúa ôi, con xin tuân theo lệnh Ngài, xin giúp con để cứu những người đang chìm ngập trong biển mênh mông này.” Ông bỗng thấy mình trở thành một đứa trẻ thơ, đồng thời cũng là một tội nhân. Tay chân, mình mẩy bị những giây xích vàng, xích bạc quấn chặt lấy. Ông cố gắng bước tới nhưng không sao dơ chân lên được. Hình như phía sau có những người cầm những giây xích ấy kéo giật ngược lại, ông hoàn toàn thất vọng. Rồi ông thấy một con chim ưng từ một vùng trời nào xa xăm bay tới, ngày càng tỏ, ngày càng lớn, xà xuống đậu trên đầu ông. Nhìn kỹ lại thì không phải là chim ưng, mà là một cây thập tự nhuộm máu đỏ. Trên cây thập tự có khắc một dòng chữ: “Ngước nhìn thập tự hướng trước mà chạy”. Cây thập tự bỗng lìa khỏi đầu ông, và bay đi, xé gió rít vang như một tấu khúc khải hoàn của những chàng dõng sĩ. Những xiềng xích trên người ông bỗng đứt lìa và rơi rụng xuống đất. Ông thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lướt nhanh về phía trước để cứu những người đang bị giạt trôi đi ấy. Đang khi ông còn hơi chần chờ, thì bỗng nhiên thấy mình đang bập bềnh giữa biển cả mênh mông. Ông thôi không còn sợ hãi mà quyết một lòng sống chết với những người đang đắm chìm trong đại dương. Khi thấy mình cũng chung số phận sắp chết đuối như họ, ông liền kêu cầu cùng Chúa xin tiếp lấy linh hồn mình.
Tiếng nguyện cầu vừa dứt, ông thấy như chân mình chạm đất, liền đứng thẳng dậy, thì ra mình đang đứng trên cây thập tự nhuộm hồng đó và bay đi như một con chim ưng rồi, đáp đậu ngay giữa đại dương. Cây thập tự như một thanh nam châm vĩ đại, có lực hút tất cả những người đang chới với trong đại dương. Những ai trôi giạt đến gần đều được cây thập tự hút lấy, mọi xiềng xích trên mình họ đều bị bứt đứt và rời ra. Cây thập tự nằm ngang trên mặt biển, rồi lớn dần, lớn dần. Số người đứng trên cây thập tự ngày càng nhiều, nhiều đến độ không thể đếm được nữa. Cây thập tự càng lớn, càng che khuất diện tích của đại dương và khiến cho đại dương biến mất, chỉ còn lại một nền tảng vững vàng như núi đá, là cây thập tự với hàng triệu, triệu người đứng trên ấy.
Cảnh trí chung quanh bấy giờ trở nên huy hoàng, rực rỡ khiến Tống Thượng Tiết vô cùng hạnh phúc. Rồi ông nghe một tiếng kèn vang lừng trổi lên và nơi ấy biến thành một khu vườn với bốn mùa tươi thắm quanh năm, người người vui thỏa, luôn cất tiến ca ngợi Chân Thần. Tống Thượng Tiết thấy mọi người đến bắt tay mình. Nhìn kỹ lại thì ông thấy đó là những bà con ruột thịt, bạn bè thân thiết, đồng bào máu mủ thân yêu. Tống Thượng Tiết vô cùng vui sướng, múa tay, vung chân…, suýt chút là đá nhằm phải người bạn đồng liêu Smith đang nằm bên cạnh.
Sáng hôm sau Tống Thượng Tiết kể lại khải tượng cho các bạn trong Đoàn, mọi người đều bàng hoàng cảm động. Riêng ông thì ghi khắc giấc mộng ấy vào tâm khảm và tin chắc rằng đó là khải tượng Chúa ban cho, một ấn chứng cho suốt cuộc đời phục vụ Chúa của mình sau này? Khi còn ở trên đất Mỹ cũng như lúc đã trở về Trung Quốc hay bất cứ một nơi nào, mọi người được nghe ông thuật lại giấc mộng khải tượng lạ lùng ấy đều không tránh khỏi bồi hồi xúc động. Giấc mộng ấy là một ấn tượng sâu sắc không thể nào phai nhòa trong trí nhớ. Mỗi khi có dịp là ông lại chia sẻ khải tượng thiêng liêng ấy.
CHƯƠNG 14
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TRONG VINH DỰ 1923
Năm cuối cùng của đại học cũng là năm Tống Thượng Tiết bận rộn nhất và nghèo ngặt nhất. Cùng túng vì ảnh hưởng của cơn khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ lên đến cao điểm sau Thế Chiến thứ I. Phần lớn các hãng xưởng đều bị phá sản và phải đóng cửa, nạn thất nghiệp lan tràn. Để duy trì sự sống và có thể tiếp tục được việc học, Tống Thượng Tiết phải chấp nhận những công việc nặng nề, vất vả nhất mà thù lao lại thật là khiêm nhường. Khóa học sắp mãn, bài vở chất chồng, thi cử dồn dập. Riêng ông lại càng bận rộn hơn những sinh viên khác vì phải cố gắng rút ngắn thời gian cả chương trình 4 năm thành 3 năm. Ông phải luôn thức thật khuya, dậy thật sớm để thanh toán cho xong bài vở. Công việc nặng nhọc, bài vở nhiều, sức khỏe kém dần và tinh thần càng ngày càng sa sút làm ông rất dễ nóng giận vô cớ. Trong thời gian bị dồn nén vì công việc và bài vở này, đã xảy ra ba việc thật đáng tiếc khiến ông đau xót và ân hận suốt đời. Ông cho đó là những vết nhơ trong cuộc đời mình.
Thứ nhất là cung cách cư xử thiếu lễ giáo của ông với anh mình. Hai anh em ăn chung, học chung. Nhưng vì ông thông minh, học giỏi hơn nên sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Tất cả các việc bếp núc, chén bát, dọn dẹp đều phó mặc cho người anh, còn mình thì chẳng hề đụng đến ngón tay. Đôi khi cơm không ngon miệng, nhà cửa không vén khéo, ông không vừa ý còn la rầy người anh. Người anh, vì còn cần phải nhờ vả đến em trong việc học hành nên đàng phải nhịn nhục, nín chịu. Nhưng Tiết càng ngày càng tỏ ra quá quắt, người anh không còn nhịn được nữa, nên anh em đã có cuộc cãi vã to tiếng. Về sau cảm thấy lỗi lầm hoàn toàn thuộc về mình, ông vô cùng hối tiếc. Ông đã xin lỗi và làm hòa với anh.
Thứ hai là việc không ngay thẳng trong lúc thi cử. Trong các kỳ thi tại các trường đại học ở Mỹ thì không có giám thị. Khi nhận được đề thi thì thí sinh chỉ việc làm bài. Làm xong, trước khi nộp, mỗi người phải viết vào bài của mình dòng chữ: “Có Chúa chứng kiến, tôi đã làm bài thi một cách ngay thẳng, không gian lận”. Xong, viết tên vào bài của mình và nộp. Trong vòng sinh viên, thì cũng đủ thành phần, dĩ nhiên cũng có nhiều người đã không ngay thẳng trong việc thi cử. Riêng với Tống Thượng Tiết thì từ các lớp tiểu học, rồi trung học, đại học không bao giờ gian lận trong khi thi cử. Nhưng kỳ thi mãn khóa ra trường này thì ông đã không giữ được sự ngay thẳng cố hữu của mình. Dưới mắt nhìn của nhiều sinh viên thì việc này cũng bình thường thôi, nhưng đối với ông thì đây là một tội lỗi không tha thứ được.
Thứ ba, vì tình trạng kinh tế vẫn khó khăn, và bài vở quá bề bộn, nên ông cũng thường khai thêm giờ làm ở sở. Thêm giờ làm thì lãnh lương được nhiều hơn. Về sau, ông đã ăn năn, và đã đi làm bù lại những giờ đã khai man đó.
Đúng như dự định, Tống Thượng Tiết đã hoàn tất chương trình đại học bốn năm trong vòng ba năm. Niên khóa ấy có chừng 300 sinh viên tốt nghiệp, trong số đó chỉ có 20 sinh viên đậu tối ưu, đa số là phái nữ. Duy có ông và ba nam sinh viên khác đậu văn bằng cử nhân danh dự mà thôi. Mỗi ngành học đều có phần thưởng bằng hiện kim cho sinh viên xuất sắc. Tống Thượng Tiết được phần thưởng về ngành khoa học vật lý. Nhiều người rất kinh ngạc vì chàng là một sinh viên nghèo, vừa làm vừa học, mà đã hoàn tất chương trình đại học bốn năm trong vòng ba năm, lại ra trường với cấp bằng danh dự. Báo chí Mỹ đua nhau đăng tải tin này, nhiều tờ đã không ngần ngại đăng cả hình của ông lên với tựa lớn ở trang đầu. Nhiều tờ báo ở Châu Âu cũng đăng tải nguồn tin hấp dẫn này.
CHƯƠNG 15
SAU KHI TỐT NGHIỆP MÙA HÈ 1923
I. KHẢI TƯỢNG TRONG TRẠI HÈ
Xong cử nhân, Tống Thượng Tiết rời mái trường với nhiều kỷ niệm vui buồn. Vấn đề được đặt ra cho ông bây giờ là làm sao tìm ra được một con đường thích hợp. Nỗi khó khăn bây giờ của ông không phải là đối diện với một ngõ cụt không lối thoát. Ngược lại, ông đứng giữa một ngã tư đường, mà lối nào cũng đầy hoa gấm gọi mời. Thật khó nghĩ, không biết phải chọn lối nào trong bốn lối:
Một đại học ở Minnesota, mời ông làm phụ tá cho trưởng phòng thí nghiệm hóa học, được trả lương hằng năm là 700 Mỹ kim.
Một nhà hảo tâm muốn tặng cho ông học bổng 1.000 mỹ kim một năm để theo học y khoa tại viện đại học Haward. Ông đã từ chối học bổng hậu hĩ này, thứ nhất là điều kiện sức khỏe không cho phép theo học ngành này, thứ đến vì người anh còn phải theo học ở Ohio, nên ông còn phải ở lại đó để giúp đỡ anh.
Đại học tiểu bang Ohio chấp thuận cấp cho ông một học bổng để tiếp tục học chương trình Cao học. Ngoài ra, hằng năm ông còn nhận được 300 mỹ kim để chi tiêu. Có người biết mục đích của Tống Thượng Tiết là sau khi đã học hành xong tại Mỹ sẽ trở về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm, nên đề nghị cấp học bổng cho ông vào học ở Chủng Viện Thần Học.
Trước bốn con đường tươi sáng đó, ông đã chọn con đường thứ ba là vào viện Đại học tiểu bang Ohio, thuộc thành phố Columbus. Tương lai thật huy hoàng, sáng lạng, đường danh vọng trước mặt như gấm trải, hoa thêu nhưng ông vẫn luôn băn khoăn, bồi hồi. Lòng dạ luôn bất an và như hối tiếc một điều gì vừa đánh mất! Chính ông cũng không tìm thấy được nguyên nhân thầm kín của nỗi lòng băn khoăn ấy. Để tự trấn an, ông rủ một người bạn trong đoàn truyền giảng Phúc âm đi dự trại hè sinh viên miền Tây Hoa kỳ tổ chức tại Le Geneva, tiểu bang Wisconsin. Từ Columbus đến Le Geneva phải mấy ngàn dặm đường bộ, tổn phí di chuyển cũng phải trên 50 mỹ kim một người. Đến giờ lên đường, ông chỉ còn ít đồng dính túi, nhưng ông vẫn quyết định ra đi trong đức tin bằng cách quá giang xe.
Hôm ấy trời nóng bức, Tống Thượng Tiết cùng người bạn ra xa lộ đón xe xin đi nhờ. Cũng có một đôi chiếc cho đi nhờ vài chặng đường. Họ cứ làm như vậy để thâu ngắn cuộc hành trình. Nhưng trong một đêm nóng bức nọ, người cho quá giang đã bỏ họ xuống ở một khoảng đường vắng vẻ, không quán trọ, không nhà cửa để xin tá túc qua đêm. Vừa đói lại vừa khát, nhưng ông cùng người bạn đồng hành quyết định cứ tiếp tục cuộc hành trình. Họ cắm cúi cùng nhau đi bộ suốt một đêm trường. Sáng hôm sau, chân thì mỏi nhừ, bụng đói, miệng khát, thân thể mệt nhoài… Hai người không còn cất bước được nữa. Ông đề nghị với bạn: “Thôi cứ đứng dậy chờ sự trợ giúp của Chúa”. Vừa dứt lời thì có một chiếc xe từ xa tiến lại. Ông vừa thầm nguyện vừa đưa khăn tay vẫy, tỏ ý xin đi nhờ. Chiếc xe từ từ dừng lại, chủ nhân vui vẻ mời hai chàng lên xe và hứa sẽ đưa họ đến tận Chicago. Từ đáy lòng, ông dâng lên những lời chân thành cảm tạ và ngợi khen Chúa để bày tỏ nỗi vui thỏa của mình.
Xe lăn bánh được một đoạn đường, ông lấy ra một quyển sổ và xin chữ ký đôi vợ chồng trẻ tốt bụng để lưu niệm. Lúc ấy mới hay họ cũng là bạn đồng trường với ông ở đại học Wesleyan. Đôi vợ chồng trẻ này vừa cưới nhau và họ lên Chicago để hưởng tuần trăng mật. Họ cũng đã biết nhiều về thành tích vẻ vang của ông qua báo chí, nay vì tình cờ mà được gặp gỡ tận mặt, họ thật vui mừng và biểu lộ nhiệt tình cảm mến ông. Đến Chicago thì trời đã tối, nên đôi vợ chồng trẻ mời hai chàng vào khách sạn nghỉ ngơi và thết đãi một bữa cơn chiều thật thịnh soạn. Cơm tối xong họ ưu ái bắt tay nhau từ giã.
Từ thành phố Chicago đến hồ Geneva, địa điểm trại không xa lắm, đi xe bus chỉ tốn vài đồng. Ông đã không quản ngại ngàn dặm xa xôi để đến tham dự trại, nhưng những vấn đề mang ra thảo luận trong kỳ trại này không đáp ứng những khát khao tâm linh của ông. Ông thất vọng, lòng lại tràn đầy bất an. Ông rời trại, tìm đến một ngọn đồi vắng để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Câu chuyện Chúa Giê-xu dùng năm cái bánh và hai con cá đãi năm ngàn người ăn tối diễn ra thật sinh động trước mắt. Ông vô cùng vui sướng, và để diễn tả nỗi lòng tràn ngập hân hoan, ông đã một mình nhảy nhót múa tay, khoa chân trên đồi vắng.
Tống Thượng Tiết nhận được bài học qua suy tưởng và những hình ảnh hiện ra trong đầu óc chàng thật rõ ràng: có những vật thật nhỏ mọn tầm thường, không đáng gì dưới con mắt loài người, nhưng khi ở trong tay Thượng Đế Toàn Năng thì trở thành giá trị lớn lao vô cùng. Ngài đã làm thành vật thể từ cõi hư vô. Vì vậy hành động dâng hiến cho Chúa là hành động bắt nguồn từ đáy sâu của lòng chân thành, hy sinh. Năm cái bánh và hai con cá biểu tượng một cách toàn diện thân thể chúng ta: Con người có ngũ quan, ngũ tạng, năm ngón tay, năm ngón chân, hai tay, hai chân, hai mắt, hai tay… Sinh tế đẹp lòng Chúa hơn hết là khi chúng ta tận hiến thân thể, cuộc đời mình cho Ngài. Chắc chắn Ngài sẽ không khinh rẻ mà còn dùng năng quyền tuyệt đối của Ngài để biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành hữu ích cho vô số người đang đói khát trông chờ. Do đó chúng ta không thể và không có phép dùng thân thể đã được chuộc bằng một giá rất cao là chính huyết của Chúa Cứu Thế Giê-xu để tham dự vào những hành vi bẩn thỉu, xấu xa. Chúng ta phải dâng chính thân mình làm của lễ sống và thánh cho Chúa. Thân thể chúng ta thuộc về Chúa. Nếu chúng ta còn tìm cách để người khá vui lòng về mình, hoặc tìm những tư lợi thỏa mãn riêng tư thì chúng ta không còn là tôi tớ của Chúa Cứu Thế nữa (Galati 1:10).
II. PHÉP LẠ CHỮA BỆNH KỲ DIỆU CỦA THƯỢNG ĐẾ
Từ trại hè Geneva về lại tiểu bang Ohio, Tống Thượng Tiết nhờ người tìm việc làm cho mùa hè. Lúc bấy giờ xin việc làm không phải là chuyện dễ. Cuối cùng ông cũng được nhận vào làm ở một nhà máy. Mới làm được một tiếng đồng hồ thì ông cảm thấy choáng váng và người lên cơn sốt. Biết không thể nào tiếp tục công việc được nữa, ông đành phải rời nhà máy để vào bệnh viện khám sức khỏe. Kết quả khám nghiệm là ông bị lao phổi. Muốn điều trị bệnh lao phổi thì phải được ở một nơi có không khí trong lành. Vị Mục sư sở tại đã giới thiệu cho ông một nông trại để làm việc canh tác. Tánh tình và sở thích của Tiết không thích hợp với việc đồng áng. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng chỉ làm việc được ba tuần là ông phải tự ý rời nông trại. Công việc đồng áng trong ba tuần lễ ấy đối với ông thật là nặng nhọc, vất vả và bực mình. Đã vậy ông chẳng được trả một đồng thù lao nào mà lại còn bị trách mắng đủ lời!
Tống Thượng Tiết trở lại trường học với tinh thần và thể chất bạc nhược. Tất cả những ý chí, ước vọng về tương lai to lớn của những ngày mới tốt nghiệp đại học như tan biến theo mây khói. Dù con đường lợi danh vẫn còn rộng mở và quyến rũ, nhưng với ông, bây giờ chúng chỉ là những cạm bẫy hư vinh! Ông nhận thức được ý nghĩa đời người thật hư ảo nếu chỉ chạy theo những danh lợi, hư vinh. Tất cả đều hão huyền như những bong bóng nước của cơn mưa giông chiều. Không một con đường danh vọng gấm hoa nào còn có thể quyến rũ được ông. Chỉ những giờ phút cầu nguyện tương giao với Chúa là có ý nghĩa đích thật. Đó cũng là con đường duy nhất mà ông có thể bước đi nhẹ nhàng không vướng bận.
Lại rơi vào hoàn cảnh: “Tay không làm thì hàm không nhai”, ông phải xin một chân rửa chén đĩa cho một nhà hàng. Mỗi ngày phải rửa hơn một ngàn chén đĩa, nên tay của ông bị sưng lên đau đớn. Đã thế, chủ nhà hàng lại đối xử tệ với ông như với những kẻ làm thuê vô học khác, chỉ cho ăn những thức ăn khách ăn dư thừa. Ông thà nhịn đói chứ không chịu sỉ nhục ăn cơm canh thừa. Nhẫn nhục rửa chén đĩa trong hai tuần cũng chẳng được một đồng thù lao nào, chàng lại phải bỏ việc ra đi…
Chỉ một thời gian ngắn sau, ông lại tìm được một việc khá đặc biệt: làm phu cắt cỏ hai bên vệ đường. Dưới ánh mặt trời gay gắt, mỗi ngày phải làm tám giờ, một giờ được bốn hào rưỡi. Công việc thật là nặng nhọc vất vả, nhưng ông lại thấy thích thú, vì được làm việc dưới ánh nắng mặt trời và được hít thở không khí trong lành. Càng làm việc sức lực càng gia tăng. Sau ba tuần lễ cắt cỏ bên vệ đường bệnh phổi của ông không cần thuốc uống mà tự nhiên lành hẳn. Thật là một phép lạ diệu kỳ của Thượng Đế.
CHƯƠNG 16
BẮT ĐẦU MỘT THỜI KỲ HOẠT ĐỘNG MẠNH (1924)
Mùa hạ đã trôi qua, sức khỏe của Tống Thượng Tiết hoàn toàn hồi phục. Tinh thần phấn chấn, ông bắt đầu hoạt động hăng say tại đại học Ohio. Thời gian đó là một trang sử vàng son trong cuộc đời ông.
Đại học Ohio qui tụ trên 1.000 sinh viên đến từ 13 quốc gia khác nhau trên thế giới. Trước đây có một văn phòng của cơ quan sinh viên quốc tế đặt tại trường nhưng vì không có người điều hành nên mọi hoạt động của cơ quan đều bị ngưng đọng và lụn tàn dần.
Tựu trường được một thời gian, Tống Thượng Tiết được đề cử làm hội trưởng cơ quan sinh viên quốc tế đó. Theo nhận xét của ông thì những hội viên của cơ quan này chỉ là những người làm cho có, không ai có tinh thần trách nhiệm. Muốn cơ quan hoạt động mạnh mẽ trở lại không phải là một chuyện một sớm một chiều. Ông quyết định dùng biện pháp phân công, giao việc, hợp tác lại tất cả mọi hội viên. Tạo lại không khí hứng khởi, vui tươi thích thú cho họ. Mỗi hội viên đều có cơ hội đóng góp tài sức mình để xây dựng hội
Trước hết, ông triệu tập tất cả những hội viên có khả năng âm nhạc, thành lập một ban nhạc và dùng những nhạc khí đặc thù của quốc gia mình để trình diễn. Sau một thời gian tập dượt, hội quyết định tổ chức những đêm hòa nhạc, gây quỹ cho hội. Vé vào cửa thật rẻ. Người Mỹ vốn ưa thích nghe trình diễn nhạc, nên chẳng mấy chốc vé hạng $1 đến $5 đều bán sạch. Tổng kết những đêm ca nhạc tiền thâu vào lên đến một ngàn mỹ kim. Trừ chi phí, số tiền lời sung vào quỹ cho sinh viên quốc tế vay không lấy lãi. Những đêm hòa nhạc của Hội Sinh Viên Quốc Tế thành công mỹ mãn, nên báo chí đua nhau đăng tin, gây ảnh hưởng thật tốt cho Hội.
Tiếp đến, Tống Thượng Tiết mời các nữ sinh viên trổ tài nấu nướng. Các nàng nấu đủ các món quốc hồn quốc túy của quốc gia mình. Thực khách có thể chọn các món mình ưa thích. Qua dịp này nhiều người thuộc những quốc gia khác nhau có thể quen biết, trao đổi kiến thức cũng như phong tục tập quán của nhau. Những sinh hoạt này đáp ứng được nhu cầu tinh thần và tâm lý của giới trẻ, nên Hội Sinh Viên Quốc Tế có đà phát triển mạnh. Ngân quỹ của Hội càng ngày càng dồi dào.
Mặc dù công việc của hội thật bề bộn, nhưng không vì thế mà ông lơ là việc học hành. Sau 9 tháng sách đèn, và qua một kỳ thi cam go, tháng 6 năm 1924, Tống Thượng Tiết tốt nghiệp Cao học với hạng tối ưu. Hội khoa học tặng cho chàng một chìa khóa vàng, đó là một vinh dự lớn, chỉ dành cho những sinh viên ưu tú, lại sinh hoạt chăm chỉ chịu khó. Ông cũng tự học thêm về vật lý, nhưng chuyên ngành là hóa học và cũng đã nghiên cứu và bào chế được một loại nước hoa, nên được Hiệp Hội Khoa Học tặng một huy chương tưởng lục và nhà trường thưởng một số hiện kim là 300 mỹ kim. Chính phủ Trung Hoa nghe tin cũng tặng cho Tống Thượng Tiết 480 mỹ kim. Tất cả sinh viên đều nhìn ông với đôi mắt thán phục, họ thấy ông như đạt được tất cả những danh vọng, những ước mơ của sinh viên. Nhưng riêng ông, vẫn thấy như thiếu vắng một điều gì. Những buổi sáng tinh sương, thức dậy nghiên cứu những chất độc hóa học cùng những chất độc để sản xuất lựu đạn cay. Ông thường phát biểu: “Khi những huyết quản trong cơ thể tôi chưa ngừng lại, thì lòng tôi vẫn không ngớt nuôi tham vọng học hỏi, tìm tòi để hiểu biết thêm”.
Vừa xong cử nhân thì chương trình cao học mời gọi. Đạt được cấp bằng cao học với hạng tối ưu thì mảnh bằng tiến sĩ lại gọi mời. Muốn tiếp tục chương trình tiến sĩ thì phải thông thạo và qua một kỳ thi sinh ngữ thứ nhì. Các chương trình tiến sĩ khác ngoài khoa học thì có thể chọn Pháp ngữ hay Đức ngữ, nhưng riêng ngành khoa học thì bắt buộc phải chọn Đức ngữ. Ông đã từng bỏ nhiều thì giờ học Pháp văn, nhưng Đức văn thì chưa bao giờ học, nên nay phải tự học.
Sau chỉ hai tháng chăm chỉ, vốn liếng Đức ngữ của ông đã có thể nghiên cứu được những tài liệu khoa học. Khi ghi danh dự thi, vị giáo sư không có thì giờ trắc nghiệm trình độ Đức ngữ của ông nên đưa cho một quyển sách khoa học bằng Đức ngử, bảo dịch sang Anh ngữ. Hoàn tất việc dịch, ông nộp cho giáo sư của mình. Đọc xong giáo sư rất hài lòng về trình độ Đức ngữ của ông và không tiếc lời khen ngợi về lối dịch rất chính xác. Giáo sư tưởng ông ít nhất cũng đã phải mất 3 năm để trau dồi Đức ngữ như những sinh viên khác mới có thể đạt được trình độ này. Ông cũng tự thấy thỏa lòng, có cảm nghĩ mình như một người ăn mần thắn, chỉ riêng mình mới biết mình đã ăn bao nhiêu viên.
Khi đã hội đủ điều kiện rồi, ông bắt đầu chăm chú nghiên cứu chương trình tiến sĩ. Suốt ngày ông bận bịu với sách vở và phòng thí nghiệm, nhưng cũng cố gắng dành thì giờ để điều hành Hội Sinh Viên Quốc Tế.
Lúc bấy giờ tại Mỹ, phong trào kỳ thị chủng tộc đang lên cao. Sinh viên da trắng không bao giờ bắt tay sinh viên đen chứ đừng nói đến chuyện cùng nhau thảo luận trò chuyện. Ông rất bất bình với tinh thần hủ bại này, ông muốn làm một cái gì để phá vỡ bức tường ngăn cách chủng tộc ô nhục này. Ông nghĩ ra một kế hoạch để thực hiện ý định mình.
Ông mời tất cả các nữ sinh (của hơn mười ba quốc gia đang theo học đại học Ohio) nấu những món ăn quốc hồn quốc túy của họ, rồi mời tất cả sinh viên trong trường đến dự. Mỗi khẩu phần chỉ tốn 50 xu. Riêng sinh viên da đen thì được miễn phí, vì hoàn cảnh của họ chật vật hơn những sinh viên khác.
Trong phòng ăn, những bàn được sắp xếp theo hình chữ LOVE. Các nữ sinh viên trong Hội Sinh Viên Quốc Tế làm “hầu bàn”. Khi vào tiệc, các sinh viên da đen được sắp xếp ngồi xen kẽ với các sinh viên da trắng. Sau bữa ăn là phần diển thuyết, Tống Thượng Tiết thường trình bày về tình yêu của Chúa Cứu Thế và tinh thần tương thân tương ái rút ra từ Phúc âm. Những bài thuyết giảng của ông lúc nào cũng thấm nhuần tinh thần học mới. Sau này, hồi tưởng lại, ông thường tâm sự, ông đã đi vào “một con đường dường như chính đáng” nhưng sai lạc. Chính ông đã bị mũi tên “thần học xã hội” bắn trúng và nhiễm độc lúc nào không hay biết. Tuy nhiên, những bữa ăn như vậy được kể là thành công vì có ảnh hưởng rất lớn. Sau đó ông kêu gọi thành lập một hội Gia Hữu Chủng Tộc. Hàng tháng tổ chức những bữa cơm tập thể, những món ăn cũng được các nữ sinh của các quốc gia khác nhau cung cấp, nấu nướng. Mục đích của các bữa ăn này là tìm cách xóa tan sự ngăn cách mà da chủng tốc. Ngoài ra Hội cũng mời những giáo sư nổi tiếng như tiến sĩ Stanley Jones đến thuyết giảng và tham dự những bữa ăn “quốc tế” này.
Trong khi dùng bữa, họ bàn với nhau những phương cách cải thiện và đãi ngộ đời sống dân da đen. Báo chí các trường đại học Mỹ đã viết nhiều bài tường thuật và phân tích những buổi thuyết giảng này. Sau đó các buổi sinh hoạt tương tự được tổ chức cùng khắp các đại học ở Mỹ. Ai cũng thấy rõ, Tống Thượng Tiết là cha đẻ của phong trào bài trừ nạn kỳ thị chủng tộc trong các đại học. Trường đại học Ohio nổi tiếng cũng là do phong trào của ông. Báo chí trong nước tiếp tục đăng tải những bài viết về phong trào “xóa bỏ kỳ thị” và ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến ông rất hãnh diện và vui mừng thấy Hội Sinh Viên Quốc Tế này ngày càng lớn mạnh. Ông cũng mời những sinh viên Do Thái tham gia vào Hội. Hội viên của Hội đều ủng hộ và mời Tống Thượng Tiết tiếp tục giữ chức chủ tịch trong nhiều khóa sau đó. Khi tiến sĩ Stanley Jones nhận lời mời, đến thuyết giảng trong những bữa ăn “quốc tế” nói trên cũng đã hết lời ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến cho ông nở hoa. Trong một lần đại hội, ông được bầu làm chủ tịch của Hội Hoà Bình sinh viên mười ba quốc gia. Không những sinh viên mà quần chúng cũng hoan hô nhiệt liệt với những bài ca ngợi đăng trên báo chí. Lòng Tống Thượng Tiết lâng lâng bay bổng, tưởng như mình là một chính khách lỗi lạc nào đó. Sau này khi nhắc đến câu chuyện xưa ấy, vị “lãnh tụ phong trào Hòa Bình” tâm sự rằng: “Bây giờ ôn lại quá khứ, những việc ấy giống như phù vân, sớm tan biến vào hư không. Thật xấu hổ khi ở ngoài với xã hội tôi tổ chức những đại hội này, kêu gọi phong trào nọ, nhưng vừa về đến nhà là cãi cọ, và ẩu đả với chính anh ruột mình. Ôi! Tất cả chỉ là việc làm của một xác chết, xác chết thì có giá trị gì đáng nói!”
CHƯƠNG 17
VỪA GIAO TẾ VỪA NGHIÊN CỨU (1923-1926)
Ngoài công việc của Hội Sinh Viên Quốc Tế, Tống Thượng Tiết còn tham dự những sinh hoạt trong Giáo hội. Mỗi tuần, ông đều được mời đi giảng cho thiếu niên, hay đến chia sẻ, khích lệ cho các Hội Thánh, ít nhất một hay hai lần. Xe đến đưa đón thường xuyên thật là bận rộn. Trong thời gian ba năm học ở Ohio. Ông đã đến các Hội Thánh giảng dạy, chia sẻ hơn một trăm lần. Vào các dịp lễ như Giáng Sinh thì ông lại càng bận rộn hơn nữa. Ông đã mở các cuộc lạc quyên trong trường, lấy tiền mua quà cho các em thiếu nhi sống trong cô nhi viện. Hàng năm có đến hai hay ba trăm em đã nhận được quà từ “Ông già Nô-ên Tống Thượng Tiết”. Ngoài ra, mỗi năm ông còn quyên góp hàng trăm Mỹ kim giúp cho quỹ tiết kiệm của các Hội Thánh.
Một trong những nơi ông thường đến giảng dạy là một Hội Thánh Giám Lý. Họ có ý định mời ông làm Mục sư quản nhiệm. Ông thấy đây là một vinh dự lớn, nên đã vui vẻ nhận lời mời. Nhìn lại quá khứ, Tống Thượng Tiết thú nhận rằng trong những thời điểm đó, mình là một Cơ đốc nhân không có sức sống, nhưng lại ham thích làm những công việc thuộc linh. Ông thấy lòng không một chút bình an mỗi khi đi giảng dạy Lời Chúa. Những bài giảng của ông lúc đó hoàn toàn do tài hùng biện và những vốn liếng trí thức thâu thập được trong học đường. Lắm khi, lý do đi giảng dạy cũng thôi thúc từ cõi lòng muốn khoe khoang vốn liến tri thức của mình, muốn cho mọi người biết đến danh tiếng của mình.
Ngoài những hoạt động về mặt tôn giáo và xã hội, ông còn có những hoạt động trong lãnh vực giao tế. Là một thanh niên nổi tiếng như vậy, nên ông có rất nhiều bè bạn. Những sinh viên nam nữ lúc bấy giờ cho việc kết thân với Tống Thượng Tiết là một đại vinh dự. Ông được rất nhiều người mời mọc về nhà thết đãi như một thượng khách, được mời đi xem phim hay tham dự những cuộc vui khác. Ông đã nếm trải tất cả những thú vui và hưởng thụ tất cả những lạc thú mà một thanh niên của thời đại ưa thích… Nhưng tạ ơn Thượng Đế, ông đã không bị chìm ngập và lôi cuốn vào cuộc sống trụy lạc đầy thú vui thụ hưởng của xã hội Mỹ thời bấy giờ.
Một thanh niên nhiều bè bạn như vậy, ông tất phải cần nhiều tiền để chi tiêu. Nhưng tiền bạc đối với ông lúc này không còn là vấn đề khó khăn nữa, mức thu nhập nay đã rất phong phú. Ông được mời giữ chức phụ tá giáo sư đại học. Hơn nữa, thành tích học vấn ưu hạng đã khiến chính phủ Trung Hoa chú ý và đã xuất công quỹ cấp cho Tống Thượng Tiết một khoản trợ cấp khá cao để chàng tiếp tục theo đuổi việc học hỏi và nghiên cứu. Thời gian này có một cuộc sống vật chất thật đầy đủ, tưng bừng với những cuộc vui triền miên, chiếm nhiều thì giờ… Ông không còn đủ thì giờ cho việc nghiên cứu học hỏi nữa. Dầu vậy ông cũng tìm đủ mọi cách để bù vào những thì giờ đã lãng mất, bằng cách thức dậy thật sớm để vào phòng thí nghiệm nghiên cứu. Thường thì ông làm việc rất khuya, cũng có những khi phải thức thâu đêm, suốt sáng. Ông bị cuốn hút trong cuộc sống bận rộn giao tế bạn bè, đồng thời cũng bị bài vở thôi thúc, không cách nào rút chân ra khỏi cái chiến trường giằng co ấy…
CHƯƠNG 18
ĐẬU TIẾN SĨ (1926)
Lấy xong bằng Cao học, Tống Thượng Tiết tiếp tục nghiên cứu để thi Tiến sĩ. Một năm chín tháng dùi mài kinh sử và cắm cúi trong phòng thí nghiệm, ông hoàn tất chương trình Tiến sĩ với luận án “The Constitution of organic magnesium Compounds and the magnesium of creamer reaction”. Lễ nhận văn bằng Tiến sĩ của Tống Thượng Tiết được cử hành vào ngày 3, tháng 3, năm 1926. Nơi cử hành lễ trang hoàng thật vui mắt. Những giỏ hoa tặng cho sinh viên tốt nghiệp chất cao như núi. Xe cộ đậu kín sân trường. Khách tham dự chen chân không lọt. Người người đều khen tặng Tống Thượng Tiết là một nhà bác học tuổi trẻ, tài cao.
Trong khung cảnh rộn ràng náo nhiệt, mừng mừng, vui vui với những lời khen ngợi chúc tụng, ông cảm thấy một nỗi buồn khó tả xâm chiếm tâm hồn. Nỗi ưu phiền trĩu nặng, choáng ngộp khiến chàng ứ nghẹn đến khó thở. Với dòng thác bạn bè kéo đến chúc mừng, chàng chỉ miễn cưỡng bắt tay đáp lễ.
Tốt nghiệp tiến sĩ, ông tiếp tục ở lại trường giữ chức vụ phụ tá giáo sư. Trước mặt Tiến sĩ Tống, tương lai rộng mở chờ đón. Con người đầy nhiệt huyết, lại bị tham vọng thôi thúc, ông muốn vươn cao hơn nữa. Tống Thượng Tiết như muốn ôm trọn học vấn, túi khôn của loài người về cho mình. Thế nên, ngoài lãnh vực chuyên khoa là hóa học, chàng còn tiến sâu và những lãnh vực mà trước đây ông chưa hể để tâm đến như triết học, sử học, địa lý, xã hội học, kinh tế học, sinh vật học… Bạn bè thường trêu chọc là “ông tiến sĩ đa khoa”. Cái gì cũng tham lam muốn biết! Ông như mặc nhiên chấp nhận, vì trong thâm tâm, chàm muốn trở nên một tiến sĩ “toàn tri”!
Trong lúc đó, vị giáo sư về kỹ nghệ hóa học của Đại học Ohio muốn sưu tập những bài viết, những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến kỹ nghệ hóa học nên nhờ Tống Thượng Tiết tiếp tay, giúp đỡ. Ông nắm ngay lấy cơ hội và xem đây như một dịp may hiếm có. Vừa được thù lao cao, lại được học hỏi, nghiên cứu thêm miễn phí. Sau một thời gian làm việc, vị giáo sư này giới thiệu Tống Thượng Tiết với cơ quan Lập Pháp tiểu bang Ohio, nhờ sưu tầm, nghiên cứu những luật pháp tương quan đến các nhà máy hóa học thuộc tiểu bang. Qua công việc này, ông sinh hiểu biết thêm về luật pháp đồng thời kiến thức được nới rộng và kinh nghiệm cũng thêm nhiều. Dày dạn kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng, khí thế tinh thần của Tống Thượng Tiết lại càng được nâng cao, càng nhìn đời với đôi mắt khinh mạn. Vũ trụ như quá bé nhỏ cho ông tìm hiểu, chẳng còn gì để khám phá!
Sau nửa năm cùng nghiên cứu sưu tầm, vị giáo sư nhận thấy người phụ tá của mình quả là một nhà bác học tài năng lỗi lạc, xứng đáng được đề cử đi nghiên cứu học hỏi thêm ở nước ngoài. Ông liền vận động tài chánh và phương tiện để đưa Tống Thượng Tiết sang Đức nghiên cứu thêm về hóa học. Đang khi chuẩn bị lên đường thì ông nhận được thư của quê nhà, từ một y khoa đại học nổi tiếng ở Trung Hoa, mời ông về giữa chức giáo sư khoa hóa học hữu cơ. Nhận được thư mời ông cảm thấy thật vinh dự nhưng đồng thời cũng lưỡng lự bàng hoàng, tấn thoái lưỡng na. Sang Đức du học là một cơ hội để học biết thêm, thỏa mãn được tham vọng và nhu cầu cần khám phá tìm tòi, và rất có thể còn lấy thêm được vài ba danh hiệu Tiến sĩ. Lúc ấy trở về Trung Hoa mới thật là đạt đến đỉnh cao danh vọng. Nhưng trong ông lại cũng có lòng yêu nước thôi thúc, quốc gia đang cần nhân tài để phục vụ tổ quốc lẽ nào lại lần lựa hẹn hò?
Nội tâm Tống Thượng Tiết trải qua một cơn tranh chiến mãnh liệt, dằng co giữa đôi đường mời gọi. Để trấn áp lương tâm, ông nghĩ ra một phương cách “nhất cử lưỡng tiện”: Vì lòng yêu quê hương, tổ quốc mà qua Đức quốc để trau dồi thêm kiến thức chuyên môn, vài ba năm sau sẽ trở về để phục vụ đất nước, hợp lý hợp tình làm sao! Tuy nhiên giải pháp này cũng chỉ là một phương cách để trấn áp lương tâm mà thôi.
Một đêm đi thẩn thơ, suy tưởng dưới ánh trăng vằng vặc, ông chợt nhớ về hai câu thơ của thi hào Lý Bạch:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Tạm dịch: Ngước mắt ngắm trăng thanh/ Đầu cúi nhớ quê nhà).
Lời thơ như lung linh; hình ảnh non sông gấm vóc tuyệt vời của Trung Quốc như hiện về trong trí nhớ Tống Thượng Tiết. Nhưng khi quay gót vào phòng thì hình ảnh những nhà bác học treo trên tường lại thôi thúc lòng ông nhất quyết hướng về Ba linh để thỏa mộng sách đèn.
Trong khi lòng đang có cuộc tranh chiến giữa danh lợi, lợi danh, bỗng thoảng bên tai một giọng nói dịu dàng nhưng đâm thẳng vào tấm lòng Tống Thượng Tiết: “Nếu ngươi được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích gì?” Nghe tiếng nói rõ ràng bên tai, ông đưa mắt nhìn quanh, căn phòng vẫn tĩnh mịch, không một bóng người. Ông nhận biết đó là tiếng kêu gọi thiết tha của Cha trên trời.
CHƯƠNG 19
VÀO CHỦNG VIỆN NỮU ƯỚC
I. TIẾN SĨ KHOA HỌC THEO HỌC THẦN ĐẠO
Sáng hôm sau, một người đàn ông đạo mạo đến thăm Tống Thượng Tiết. Câu đầu tiên ông ta nói liền: “Ông không có phong thái của một nhà bác học, nhưng lại có cung cách của một Mục sư”. Người đàn ông đạo mạo ấy chính là Mục sư Wilker Fowler một người khách không mời mà đến thăm. Câu nói khơi mào câu chuyện có vẻ đường đột ấy khiến Tống Thượng Tiết cảm thấy một điều gì rất quan trọng cho đời mình. Câu nói như vô tình những đã khơi lại bao hình ảnh như xa xôi như gần gũi trong trí nhớ ông. Gần gũi vì mới đêm qua đây, ông vừa nghe được lời cảnh tỉnh của Cha trên trời; xa xôi vì cách đây đến 5 năm, khi rời quê hương, bước chân lên con tàu đi du học. Phải chăng trong tâm niệm ông là khi học hành xong sẽ trở về quê hương làm người rao giảng Phúc âm?
Tống Thượng Tiết kể lại những ý tưởng, những dao động ấy cho vị Mục sư nghe. Nghe xong, vị Mục sư đạo mạo không mời mà đến ấy liền mời ông đến Nữu Ước để học Thần đạo. Ông ta đưa một ngón cái lên trời, tỏ ý muốn nói trường Thấn đạo đó là một trường rất nổi tiếng trên thế giới – Chủng viện Union Theological Seminary. Mục sư Wilker Fowler muốn ông trả lời ngay lời đề nghị của mình. Chỉ cần vài phút suy nghĩ, Tống Thượng Tiết ha hả cười nhận lời không do dự. Tất cả những kế hoạch, chương trình sang Đức du học, rồi về nước làm giáo sư ông tức thì dứt khoát quẳng lại phía sau và loại ra khỏi đầu óc của mình.
Sở dĩ Tống Thượng Tiết chấp nhận lời đề nghị của Mục sư W.Fowler quá nhanh như vậy vì trong trí bật ra những ý nghĩ, những toan tính… Thứ nhất, Nữu Ước là một thành phố lớn nhất Mỹ quốc, nơi đó có rất nhiều bảo tàng viện đồ sộ và giá trị văn học cao. Ông muốn đến đó để lấp cái hố tri thức vốn không thể lấp đầy của mình! Hơn nữa tại Nữu Ước lại có một trường nổi tiếng thế giới là đại học Columbia. Đó là nơi mà lòng ngưỡng mộ của Tống Thượng Tiết hướng về. Ông hy vọng đến tại Union Theological Seminary sẽ học được nhiều môn thần học cần thiết, đồng thời cũng có thể nghiên cứu thêm những nền học thuật khác. Thứ đến, chủng viện hứa cấp học bổng rất hậu. Ngoài việc ăn học miễn phí, mỗi năm còn được trợ cấp thêm 500 Mỹ kim. Tại sao không nắm ngay lấy cơ hội hiếm có này?
Tháng 9 năm 1926, Tống Thượng Tiết rời Ohio, để đến Nữu Ước. Sau khi nhập chủng viện, ông mới biết phải cần ba năm mới hoàn tất chương trình. Muốn rút ngắn lại thời gian học, ông gặp ban giám đốc, xin được học tất cả những môn quan trọng trong vòng một năm. Lời đề nghị được ban giám đốc nhà trường chấp thuận. Thế là ông bắt tay vào việc. Như vậy ông phải học nhiều hơn những sinh viên khác cùng trường mỗi tuần 7,8 giờ.
Những người quen biết, nghe tin Tống Thượng Tiết vào chủng viện, đều lấy làm ngạc nhiên. Mọi người như cùng một ý nghĩ và tự hỏi: “Tại sao một con người với bằng tiến sĩ khoa học tối ưu, lại còn vào chủng viện nghiên cứu thần học để làm gì?”. Thắc mắc này đến từ những tín hữu bình thường thì ông cũng không lấy làm lạ, nhưng nói lại phát ra từ miệng những sinh viên thần học, khiến ông thật vô cùng thất vọng. Vì ông quan niệm rằng, đã là sinh viên thần học phải có đời sống thuộc linh cao, đã tận hiến cuộc đời và không màng gì đến những gì của thế tục. Chẳng bao lâu sau, ông tìm ra nguyên nhân và ông thấy tận tường mặt trái của chủng viên. Ông tuyên bố: “tôi đã mù quáng khi đến chủng viện này, thần học chỉ là chiêu bài của trường này, ngoài ra không có một sinh khí thuộc linh nào tại đây”. Tống Thượng Tiết nhận thức được rằng, nơi này có thể giúp ông phát triển kiến thức, nhưng phần tâm linh không thể nào tăng trưởng. Sức sống thuộc linh không thể tìm thấy nơi chủng viện này. Nhận định này của ông không một ác ý, hay cố tình công kích, ông chỉ phát biểu một sự thật: Union Theological Seminary là một chủng viện thuộc Tân phái!
Tuy vậy trong chủng viện cũng có một số sinh viên giữ được lòng tin kính thuần chính. Họ thường họp nhau cầu nguyện tại nhà ông bà Giáo sư Tiến sĩ C.D.Damin. Tống Thượng Tiết liền gia nhập nhóm cầu nguyện này. Ông bà Tiến sĩ Damin vốn là giáo sĩ tại Hán Thành, Đại hàn. Hiện về nước nghỉ hạn tại Nữu Ước, ông bà cũng là giáo sư thần học của một chủng viện thuộc giáo phái Giám Lý tại Nữu Ước, họ thuộc những người theo truyền thống cũ. Vì đồng quan điểm, nên Tống Thượng Tiết đã trở nên gần gũi thân thiết với Tiến sĩ Damin trong chủng viện Union Theological Seminary.
Chủng viện thường mời diễn giả khắp nơi về thuyết giảng. Họ đón nhận mọi quan điểm thần học của các diễn giả. Sinh viên cũng như các giáo sư đều có thái độ với những diễn giả đó như những khán giả xem kịch, hay thì vỗ tay tán thưởng, nghe không vừa ý thì lắc đầu chê bai. Thật ra thì lúc bấy giờ ông cũng đã chịu ảnh hưởng trong hơn ba bốn năm của thần học Phúc âm Xã hội, nên cũng có thái độ giống như mọi người. Nếu không như vậy chắc ông cũng đã bị loại ra khỏi trường rồi. Điều đó được xác nhận sau khi Tống Thượng Tiết thật sự được tái sanh. Sau khi ông được Chúa thăm viếng, ông đã nhắc lại phương pháp giải Kinh mà ông đã học được ở chủng viện Union Theological Seminary như sau: “Trước hết, họ dựa trên nền tảng triết học để giải thích Thánh Kinh, nếu triết học không giải thích được, họ quay sang chứng minh bằng khoa học, nếu khoa học không chứng minh nổi thì họ xem những chuyện trong Thánh Kinh chỉ là những chuyện ngụ ngôn có tính cách luân lý. Nền tảng triết học mà họ thích dùng như một phương tiện để giải thích Thánh Kinh là tâm lý học thực dụng. Nếu có những trường hợp vượt quá tầm luận lý của những phương pháp trên thì họ tuyên bố những phân đoạn Thánh Kinh đó không hợp lý, không đáng tin cậy. Hoặc họ bỏ qua những phần Thánh Kinh đó, chân lý Thánh Kinh đã bị họ bóp méo hay bỏ qua đi rất nhiều”.
Nhiều người lầm tưởng Tống Thượng Tiết đả kích Union Theological Seminary, nhưng ngược lại ông đã ủng hộ chủng viện ấy. Sự ủng hộ của ông không giống những người khác: ông đã cầu nguyện nhiều để Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời cải tổ Union Theological Seminary, cũng như vậy những trường thần học ở Trung Hoa có cùng quan điểm cũng như cho những chủng viện khác đang ở trong tình trạng thuộc linh bị phá sản. Tống Thượng Tiết rất quan tâm đến tình trạng thuộc linh của Hội Thánh và các Chủng Viện.
Sau này tại Bắc Kinh khi những tân tín hữu tiếp nhận Chúa và được tái sanh, ông thường giới thiệu họ đến sinh hoạt với Hội Thánh của Mục sư Vương Minh Đạo. Riêng những người muốn dâng mình hầu việc Chúa thì ông giới thiệu họ theo học trường thần đạo của Mục sư Dã Ngọc Minh.
II. ĐƯỢC MỘT CÔ GÁI BẮT PHỤC
Theo học được nửa năm tại Union Theological Seminary, Tống Thượng Tiết nhìn rõ được mặt trái của Chủng viện ông thấy chẳng có một ý nghĩa gì khi theo học Chủng viện này! Những gì ông học được với các giáo sư trong các lớp học không bằng một phần ông học hỏi được khi nghiên cứu riêng trong thư viện. Ông thầm nghĩ tại sao mình lại phải làm nô lệ cho học trình?
Muốn bù đắp lại khoảng trống vô nghĩa này, ông chôn mình trong thư viện, nghiên cứu thêm những học thuyết của nhiều tôn giáo khác. Đặc biệt ông rất chú trọng đến Phật giáo… Nhưng tư tưởng cao siêu, những điều mới lạ, ông khám phá được trong khi nghiên cứu, ông đều ghi chép lại. Trong tình trạng biến thái của tâm hồn và tâm linh, Tống Thượng Tiết đã viết một số sách nghiên cứu. Công trình mà ông thấy đắc ý nhất là tác phẩm dịch từ nguyên tác quyển Đạo đức kinh. Chẳng những ông nghiên cứu về tư tưởng của các tôn giáo, ông cũng còn nghiên cứu về mặt hình thức tổ chức của những tôn giáo này nữa. Ông thường đi lại thăm viếng, đàm đạo với các giáo quyền của các tôn giáo trong thành phố Nữu Ước. Do sự nghiên cứu và tiếp xúc này, Tống Thượng Tiết đã đi đến kết luận: “Tất cả mọi tôn giáo đều là đại lộ dẫn đến LaMã!”
Dầu kết luận như vậy nhưng trong lòng không bình an, ông thấy cuộc đời tất cả chỉ là ảo ảnh. Đời người cuối cùng là bị vây quanh với khổ đau trùng điệp. Mặc dầu cả thế giới đang công nhận khả năng tuyệt đối của khoa học, nhưng ông lại là người phủ nhận điều đó. Ông nói: “Tôi đã sống bao nhiêu năm trong lãnh vực khoa học, nhưng chưa bao giờ nhờ vào khoa học mà tâm hồn tôi thảnh thơi vui thỏa. Khoa học có khả năng cung ứng mọi vật chất cho sự hưởng thụ của con người, nhưng không thể làm giảm gánh nặng đau buồn trong tâm linh. Triết học, tâm lý học và tất cả những nền học thuật khác cũng chẳng thế nào làm cho con người được giải phóng khỏi xiềng xích của tội lỗi”.
Tình trạng tinh thần hoang mang, tâm linh rối bời, Tống ăn không hôi bữa, ngủ không yên giấc. Thân thể mệt mỏi, tứ chi rã rời. Ông trở nên ít nói, trầm tư. Nét mặt như nhuốm một vẻ buồn u uẩn. Để tránh mọi ngộ nhận của những người chung quanh, ông ít khi ra khỏi phòng. Ông muốn sống trong tĩnh lặng để thiền, để niệm Phật, để tu thân và suy gẫm và thực nghiệm lối sống thanh tịnh, vô vi của Lão tử. Tống Thượng Tiết lúc đó như con người vô hồn, niềm tin giao động như con thuyền nhỏ, không người chèo lái, không địa bàn, mất phương hướng, trôi giạt giữa biển rộng mông mênh!
Một hôm có vài người bạn đến mời Tống Thượng Tiết đi dự một buổi thuyết giảng phấn hưng. Hầu hết hội chúng đều nghĩ rằng diễn giả phải là một giáo sư tiến sĩ nổi tiếng nào đó. Nhưng mọi người đều rất ngạc nhiên khi vị diễn giả xuất hiện, vì đó chỉ là một cô gái chưa quá tuổi vị thành niên. Cô gái trang phục toàn màu trắng: Áo trắng, váy trắng, giày trắng… Nếu cô xuất hiện ở Trung Hoa, người ta sẽ nghĩ là cô đang ở trong thời kỳ đại tang của cha mẹ. Cô chỉ mang theo mình một quyển Thánh Kinh bìa da mạ vàng, khoan thai mở ra đọc lớn tiếng, đọc xong cô mời hội chúng yên lặng. Trong cái tĩnh lặng đó Tống Thượng Tiết cúi đầu suy gẫm, và cảm thấy bầu không khí trong hội trường thật là thanh khiết nghiêm trang, khác hẳn những buổi sinh hoạt khác. Giây khắc sau, ông ngẩng đầu lên, một niềm vui thỏa trào dâng, ông đang sống những giây phút thiên đàng tại trần gian.
Tiếng nói của cô thật thanh thoát nhẹ nhàng. Phương pháp giải Kinh thật khúc chiết, chặt chẽ đã nêu rõ sự cứu rỗi trong Phúc âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Mỗi một lời nói của cô như khai mở những huyền nhiệm trong thiên quốc. Như một hồi chuông cứu độ ngân vang thanh thoát và đưa cao đạo Thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết xúc động mạnh, hơi thở như ứ nghẹn, ông cảm thấy khao khát Lời Chúa” như con nai cái thèm khát khe nước” và đồng thời cũng như đang được thấm nhuần nước suối trong mát tại đó.
Hình ảnh những người vội vã chạy lên bục giảng ăn năn, xưng tội có ấn tượng sâu sắc và như in hẳn vào tâm khảm của ông, không làm sao phai mờ trong ký ức được. Trong số những người tin nhận Chúa đó có cả những lãnh tụ trong xã hội, những viên chức cao cấp trong chính phủ, cũng có cả những Mục sư nổi tiếng của các giáo phái… Tất cả như đang chìm ngập trong niềm ăn năn sám hối và cũng như được nhận chìm trong ân sủng thiêng liêng. Hình ảnh ấy đã lay động tâm hồn Tống Thượng Tiết với một niềm cảm mến, thán phục cô gái diễn giả. Riêng các sinh viên của Union Theological thì ôm bụng cười kiêu ngạo. Tống Thượng Tiết tham dự liên tục năm buổi giảng phấn hưng đó. Những buổi sinh hoạt giảng dạy đó đầy dẫy quyền năng của Chúa Thánh Linh, lòng ông tràn ngập vui thỏa. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi thấy cô gái này thật xứng đáng giữ chức vụ viện trưởng hay giáo sư tại các Chủng viện, và việc tốt nhất, tôi nghĩ, là ông viện trưởng của trường tôi đang theo học phải khiêm nhường, hạ mình đến theo học với cô này về Chân lý Phúc âm. Có như vậy mới đủ tư cách và xứng đáng làm viện trưởng. Nói một cách khác nếu không có tâm tình và ân tứ thuộc linh như cô gái diễn giả này, cho dù có đang là một vị viện trưởng đạo mạo nào thì cũng chỉ là hữu danh vô thực, giả dối là vô ích, chẳng khác chi một thư ký công nhật, đi làm để mưu sinh”.
Năm ngày giảng phấn hưng chấm dứt, dáng vẻ thanh khiết trang nghiêm với sức sống tâm linh tràn đầy của cô gái đã khắc sâu vào tâm khảm ông. Mãi đến năm 1933, khi viết một bài làm chứng, Tống Thượng Tiết vẫn còn nhớ như in thái độ cung kính thành khẩn tràn đầy tự tin. Đức tin với từ tâm, tương giao với Chúa của cô luôn luôn nổi bật trong tâm khảm ông. Nhất là những lời giảng tràn đầy quyền năng và sức sống như vẫn còn vang vang trong trí nhớ của ông. Trong bài làm chứng ấy, ông viết dưới hình thức một bức thư dài cho người bạn, ghi lại những cảm nghĩ như vẫn còn tươi mới trong trí óc ông: “Nếu một người truyền bá Phúc âm mà không có sự sống của Chúa Giê-xu thì người ấy không xứng đáng là người chứng cho Chúa. Cuộc trắc nghiệm thuộc linh của Giáo sư Giê-xu là người truyền đạo của Chúa đã được báptem bằng Thánh Linh chưa và đã được gội nhuần một đời sống tâm linh sung mãn chưa? Giáo sư Abôlô trong thời các sứ đồ, khi chưa được báptem bằng Thánh Linh cũng đã đi rao giảng Phúc âm, nhưng ông chỉ giảng bằng tài hùng biện của mình. Ngày nay cũng vậy có nhiều người đã tin nhận Chúa nhưng chưa được báptem bằng Thánh Linh.”
Trước khi viết xong bức thư, Tống Thượng Tiết thấy lương tâm mình bị cáo trách dữ dội, như một mũi giáo đâm thấu suốt tâm can. Ông cảm thấy hổ thẹn, bởi chính ông nghĩ rằng, vào Chủng viện là với mục đích sau này hầu việc Chúa, nhưng ông vẫn chưa được báptem bằng Thánh Linh. Tống Thượng Tiết ngừng bút, vào phòng riêng, trầm tư suy gẫm. Ông bị lương tâm cáo trách như một cơn bão tố, ông bắt đầu khóc nức nở…
CHƯƠNG 20
TÁI SANH – NGÀY 10 THÁNG 2 NĂM 1927
Sự khao khát trong lòng Tống Thượng Tiết được khơi dậy qua hình ảnh và lời giảng của cô diễn giả trẻ tuổi trong kỳ Đại Hội Phấn Hưng năm ngoái. Ông quyết định từ bỏ tất cả mà chỉ chuyên tâm tìm kiếm báptem bằng Thánh Linh, hầu mong nhận được SỰ SỐNG. Nhưng khốn thay, đi đến đó bằng lối nào đây? Trong lúc các bạn cùng lứa phê phán và chỉ trích là cô ta chỉ lợi dụng tình cảm nhất thời mà mê hoặc lòng người. Khi những lời này đến tai ông thì ông nghĩ rằng: nếu tôi có được quyền năng giảng dạy đầy sức sống như vậy và có được những lời cầu nguyện đầy linh lực, nếu có bị mang tiếng là mê hoặc lòng người hay chỉ là khơi động tình cảm thì tôi cũng cam chịu.
Những ngày nghỉ mùa đông đã đến, Tống Thượng Tiết tận dụng những ngày này để nghiên cứu thêm nhiều sách vở tài liệu về những vĩ nhân Tin Lành. Mỗi khi đọc xong một tác phẩm, đều reo lên một lời tán thưởng, và mừng vui: Ôi! Họ là những con người thật có sự sống, họ là những con người tràn đầy sức sống thuộc linh, ông rất đỗi kinh ngạc vì những sức mạng tâm linh thật là kỳ diệu và vĩ đại. Lòng ông dâng lên một niềm khát vọng: Làm sao đạt cho được quyền năng kỳ diệu ấy?
Đêm 30 Tết âm lịch năm 1926, khi đang quỳ gối cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nghe Đức Chúa Trời nói với tâm linh ông: “Ta sẽ hủy phá sự khôn ngoan của người không ngoan, tiêu trừ sự thông biết của người thông biết”. Tiếng nói thật êm dịu, ôn tồn, nhưng với ông, sao nghe như một tiếng sét bên tai. Toàn thân ông run rẩy, và gợn lên một niềm hãi sợ lạnh băng. Trong nơi sâu thẳm của suy tưởng, ông nhận biết câu nói này quả là chân lý. Tri thức, tài năng, tất cả những gì của con người chỉ là hư ảo và vô nghĩa. Đời người như quả bong bóng nước trong mưa, bọt bèo trôi giạt trên sống. Sống là chất chồng khổ đau, bi đát; chết là vào cõi hư vô lững lờ… Tinh thần bất an, tâm tư hốt hoảng, những canh của đêm trôi qua không sao chợp mắt được.
Buổi sáng đầu năm 1927, một cơn gió nhẹ thoảng thổi vào như càng lay động niềm hoang mang trong ông. Từng ngày một lặng lẽ vô tình trôi qua, tâm tư ông càng trĩu nặng thêm với năm tháng. Thân thể rã rời, tâm hồn bất an. Khi không còn một chút năng lực để làm một việc nhỏ nào thì trong tâm tưởng vang lên ông một câu hỏi khó giải: “Tại sao tôi phải sống một cuộc sống khổ đau trong thế tục hư không này?” Càng quằn quại sống với nan đề, lòng ông càng co thắt, hơi thở năng lực như nghẹt ngòi, cuộc đời giàn trải trước mắt ông như một đêm tối đen vô tận! Cuộc tranh chiến của Satan và Đức Thánh Linh cũng đã đến cao điểm ác liệt, đây là giây phút phân thắng bại giữa tội ác và lẽ phải. Thời điểm mà Tống Thượng Tiết sống với nội tâm đau thương ấy là ngày 10 tháng 2 năm 1927. Cuộc ác chiến đó được mô tả qua lời cầu nguyện của ông: “Tối hôm đó tôi cầu nguyện không những cầu nguyện với tất cả lòng thành khẩn, hối hả mà cầu nguyện với cả tấm lòng ăn năn xin Chúa giết chếet bản ngã nhơ nhớp. Với nước mắt sám hối, tôi kêu than với Chúa xin huyết Ngài đến phủ che tôi, khiến tôi không còn sống cho con người tôi nữa, không còn mơ ước những xa hoa phù phiếm của cuộc đời hư vinh, xin triệt hạ khỏi con những mưu kế, hoạch định xây dựng lâu đài trần gian. Tôi đã đến với Chúa với tấm lòng trần trụi, không che đậy, không dấu diếm. Tôi xin Chúa xót thương thân thể dơ dáy, tấm lòng gian ác và linh hồn tôi đang chịu khổ đau dưới sự dày vò của ma quỉ”
Qua những lời cầu nguyện bi thống đó, Linh của Đức Chúa Trời bắt đầu vận hành trong đời sống của Tống Thượng Tiết. Bắt đầu từ 10 giờ đêm hôm đó, những màn của tội ác trong vở kịch “cuộc đời Tống Thượng Tiết” đã diễn lại một cách chi tiết, rành mạch đến độ trần trụi không chi dấu diếm. Những tội lỗi không cứ nặng nhẹ, phơi bày không thiếu sót một chi tiết nhỏ nào trước mắt ông, thậm chí những tội mà trước đây ông không ý thức được là tội, thì nay cũng được khơi dậy và cáo trách khiến ông thật đau xót. Và khốn khổ nhất là ông không thể nào từ bỏ được những tội lỗi đó. Tống Thượng Tiết thấy mình quả là một “tội nhân” đáng chết mất trong lửa địa ngục đời đời. Những tội lỗi tuần tự giàn trải ra trước mắt, lòng ông càng đớn đau, như những mũi giáo đâm vào tâm tư. Ông nhắm mắt lại cố tình xua đuổi những ký ức xấu xa ấy, nhưng bất lực! Trong cơn bối rối tột cùng đó, ông bèn nhớ lại quyển Thánh Kinh Tân Ước của mình bị lãng quên dưới đáy rương từ lâu. Ông vội vã lấy ra đọc… đến chương 23 của Phúc âm Lu-ca nói về vì tội ác của con loài người mà Chúa Giê-xu phải chịu đau thương vác thập tự giá đi lên đồi Gôgôtha, ông thấy mình như cũng cùng vác thập hình và cùng bước đi xiêu tó với Chúa Giê-xu trên đường đến Gôgôtha hoang vắng, cô đơn. Ông thấy mình là một tội nhân bị lên án tủ hình trên thập tự giá và chính mình cũng tự quằn lưng vác thập tự, không dám ngẩng mặt nhìn bất cứ một ai, chỉ biết lảo đảo bước theo chân của Chúa. Giây phút cực hình đó quả là quá sức chịu đựng của ông. Cả một gánh nặng trên lưng dường như trì xuống đè trên thân thể Tống Thượng Tiết cho đến chết. Hình ảnh Chúa Giê-xu bị treo cao trên cây thập tự, đầu gục nghiêng sang một bên, hai bàn tay máu tuôn xối xả. Thảm cảnh đó khiến ông đau đớn không nguôi. Ông khiêm tốn quỳ xuống bên cây thập tự, rồi sấp mình nằm dài trên đất, ông bày tỏ tấm lòng ăn năn đến tận cùng sám hối của mình. Ông cầu xin Chúa dùng huyết báu của Ngài rửa sạch mọi điều gian ác trong con người ông.
Tống Thượng Tiết khẩn thiết cầu nguyện như thế cho đến khi nghe tiếng đồng hồ điểm nửa đêm, thì thình lình ông cất tiếng hát ca vang Halêlugia vì gánh nặng tội lỗi như đã được cất đi. Con người ông nhẹ nhõm, bồng bềnh tựa mây trời, ông nhảy múa ca hát ngợi khen Chúa. Bỗng chốc, cuộc diện lại xoay chiều, lại một tiếng nói êm dịu, nhỏ nhẹ bên tai: “Con bé mọn yêu dấu, tội con đã được tha…” Chắc chắn đó là tiếng nói của Con Đức Chúa Trời, Đấng có thẩm quyền tha tội. Tống Thượng Tiết thấy được tận mắt mình, chính Con Người đứng trước mắt ông, mặt Ngài toả hào quang sáng ngời, đầu Ngài đội vương miện, trên đôi tay Ngài còn dấu đinh xuyên qua…” Tội con đã được tha và tên con sẽ đổi là Giăng”. Lòng ông trở nên trống không, thanh sạch như một căn phòng tao nhã, yên tịnh, cửa phòng rộng mở và Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh cùng bước vào lòng ông. Lúc đó đúng một giờ khuya, rồi tự nhiên thấy thân thể mình đớn đau không sao chịu đựng nổi, tất cả mọi khớp xương cũng như lục phủ ngũ tạng đang bị trong thương, ông cất tiếng hỏi Chúa Giê-xu: “Tại sao cơn đau đớn bỗng nhiên từ đâu đến với con lạ lùng như thế này, thưa Chúa?” Ánh sáng của Thánh Linh chiếu rõi vào tâm trí ông, khiến ông ý thức được cách rõ ràng chân lý “cùng chịu đóng đinh và chết với Chúa” là như thế.
Sau này khi thuật lại kinh nghiệm diệu kỳ này ông thường nói: “Đêm hôm đó là sinh nhật thuộc linh, một kỷ niệm không thể nào phai mờ trong suốt cuộc đời tôi, và cùng lúc đó tôi nhận được mạng lệnh của Chúa: “đi rao giảng Phúc âm cho muôn dân cho đến lúc tận thế”. Và Chúa biểu tôi đổi tên là Giăng (Báp-tít) với dụng ý cho biết: Giăng Báp-tít là tiền phong của Chúa Giê-xu trước khi Ngài sanh ra trên thế gian này. Thời đại của chúng ta chẳng bao lâu nữa thì Chúa sẽ tái lâm (trở lại lần thứ hai) nên Chúa cũng muốn có một người tiền phong cho Ngài. Hai sự kiện Chúa đến trần gian lần thứ nhất (Giáng sinh) và Chúa đến lần thứ hai (Tái lâm) có đôi điều giống nhau. Cũng như Giăng là tiên phong cho lần trước, thì lần này tôi là một trong những người được Chúa gọi để làm người tiên phong cho Ngài để rao giảng Nước Trời đang đến gần và Chúa chắc chắn sẽ mau trở lại.
CHƯƠNG 21
VÀO BỆNH VIỆN TÂM THẦN
(THÁNG 2-8 NĂM 1927)
I. KHẢI THỊ
Sau đêm sinh nhật tâm linh không thể quên được ấy, niềm khoái lạc tâm hồn chi phối trọn vẹn con người Tống Thượng Tiết. Gặp ai ông cũng thuật lại công việc kỳ diệu Chúa đã làm trên cuộc đời ông, nhất là đối với bạn bè cùng chủng viện cũng như các giáo sư. Ông can đảm thuận lại cho họ mọi chi tiết một cách dạn dĩ vì biết rằng, những con người theo thần học tân phái đó sẽ chế giễu, sẽ khinh bỉ và công kích khi nghe những điều huyền bí ông kể cho họ.
Có một chuyện mà ông rất ngại thuật cho người khác nghe, nguyên là có một người thật hoàn toàn xa lạ, sau này mới biết ông ta là người Thụy Điển, biếu cho ông một quả địa cầu. Tuy nhận nó trên tay, ông chẳng biết hành động của người khách lạ có ý nghĩa gì. Khi ông đang mông lung nghĩ ngợi thì được Chúa Thánh Linh nhắc nhở: “Phải đi khắp thế gian giảng Tin Lành”. Tống Thượng Tiết rất cám ơn người biếu ông món quà mang biểu tượng sâu sắc đó. Ông mang quả địa cầu về phòng riêng, nhìn kỹ khối cầu tròn, bỗng thấy nó từ từ biến dạng thành một hình chữ nhật khá dài. Dài giống như hình một thân thể con người và đang vác trên vai một cây thập tự khá lớn. Trên đầu có mang những dòng chữ giống như chữ Palestine. Trên ngực thì lại có những dòng chữ Trung Hoa. Rồi cả thế giới như hiện ra tỏ tường trên hình người và trên cây thập tự. Những hình dạng người không ra người, ngợm không ra ngợm. Những dã thú quái đản, gớm ghiếc lờ mờ như ẩn như hiện. Đôi mắt của Tống Thượng Tiết bị cận thị nặng nên ông phải ghé mắt thật gần để nhìn cho kỹ. Ông nhận ra những con quái vật đáng gớm ghiếc đó là những vị ông đã từng ngưỡng mộ và kính phục như thần thánh: đó là những Mục sư, những Giám đốc học viện, những bậc đại Giáo sư thần học.
Sau khi được đổi mới tâm linh, Tống Thượng Tiết thấy vũ trụ vạn vật là những vinh quang của Thượng Đế cho chúng ta để ngắm xem sự vinh hiển và ca tụng bản tính thánh thiện của Ngài. Đồng thời vũ trụ vạn vật là lời chứng cho chân lý của Thượng Đế. Từng cảnh cây, từng ngọn cỏ, từng đóa hoa… tất cả như bày tỏ sự diệu kỳ, vĩ đại, thánh khiết, quang vinh và trí tuệ tuyệt vời của Chân Thần duy nhất là Thượng Đế.
Sau này, trong cuộc sống của ông, những khi có những tư tưởng đen tối, những lời nói không đẹp lòng Chúa. Ngay cả những tội mà ngày trước kia ông không nghĩ đó là tội, bây giờ hiện về cáo trách thì ông liền mở Thánh Kinh tìm đọc những chương, những câu nào bàn đến “tội lỗi”. Và sau đó ông đến cầu nguyện xưng tội, ăn năn với Chúa, rồi tìm đọc những chương, câu Thánh Kinh, những lời an ủi, những lời hứa tha thứ và những lời hứa ban phúc lành. Lắm khi những ý tưởng tiếc nuối cuộc đời vinh hoa nẩy sinh trong đầu óc ông thì liền xuất hiện những lời nghiêm khắc, những chương Thánh Kinh luận về “sự mục nát vô nghĩa của trần gian này”. Lời Chúa luôn luôn cảnh tỉnh lòng ông. Thánh Kinh, bây giờ chẳng những là thức ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh mà còn là ngọn đèn cho chân ông, hướng dẫn ông đi vào mọi lối ngay thật. Ngoài những thì giờ đọc Thánh Kinh, tương giao riêng tư với Chúa, ông còn để thì giờ để truyền bá Phúc âm.
Ngày 12 tháng 2, hai ngày sau khi được tái sanh, Tống Thượng Tiết đến tham dự một hội nghị Sinh Viên Quốc Tế. Có được vài phút phát biểu trong hội nghị, ông đã không bỏ lỡ cơ hội làm chứng thể nào Chúa đã thăm viếng và biến đổi cuộc đời và tấm lòng tối đen của ông. Ông cũng gởi lời khuyên nhủ sinh viên, với tất cả tấm lòng chân thành và nước mắt của ông: “Hãy đến gần với Chúc Cứu Thế để hưởng được sự bình an khi được Ngài thứ tha tội lỗi”. Ông cũng thẳng thắn chỉ rõ những tội lỗi, sai lầm của một số Mục sư, Truyền đạo của Đức Chúa Trời. Ông dạn dĩ mời họ cùng quỳ gối cầu nguyện với ông, xin Chúa tha cho những tội “làm việc cho Ngài cách giả dối”, không trung thành khi rao giảng chân lý. Nhưng những người đó đâu có dễ dàng tiếp nhận lời khuyên chân thành của ông. Số người biết hối cải quay trở lại con đường chính đáng rất là hiếm, nhưng Chúa cũng ban thêm năng lực và ông không nản lòng.
Trước đây, báo chí Mỹ thường đăng những bài ca tụng, những thành quả tốt đẹp của Tống Thượng Tiết trong thời gian hoạt động rất thành công trong Hội Sinh Viên Quốc Tế, ông thường sưu tập và cắt những bài báo đó, dán lại thành một tập tài liệu rất đẹp. Có dịp là mang ra khoe khoang với bạn hữu. Nhưng sau khi được Chúa thăm viếng và tái sanh, ông mang những bài báo ca tụng đó đốt hết, đốt luôn cả một số sách giáo khoa của chủng viện Union Theological Seminary. Vốn thích ca hát ngợi khen Chúa bây giờ được tái sanh rồi, ông lại càng muốn ca hát tôn vinh Chúa nhiều hơn nữa. Lúc thì ông ca vang, lúc thì thầm thì hát, lúc thì chảy nước mắt, lúc thì vui sướng tươi cười: tất cả là ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa, trò chuyện với Chúa. Vì có những cử chỉ với thái độ tâm linh bốc cháy như vậy, nên đa số những người trong chủng viện đều cho rằng: “Tống Thượng Tiết bị bệnh tâm thần”.
Ngày 17 tháng 2 ông ra phố mua một cây bút và một quyển Thánh Kinh mới. Trên đường về lòng ông tràn ngập hân hoan vui thỏa. Đi được một quãng đường, ông thấy một cậu bé rất khôi ngô, mặt mày sáng rỡ như thiên sứ, ngồi bên vệ đường. Tay cậu cầm một bảng nhỏ có viết chữ REST (nghỉ ngơi). Đi một quãng đường nữa, ông lại thấy một cậu bé khác cũng ngộ nghĩnh dễ thương như vậy và tay cũng cầm một bảng nhỏ có chữ REST, nhưng ông cũng không mấy chú tâm. Nhưng chỉ một quãng đường ngắn nữa thì ông lại thấy lần thứ ba. Lại cũng một cậu bé khác, giống như hai cậu bé kia và tay cũng cầm chữ REST giống hệt như vậy. Ông bắt đầu nghĩ ngợi về sự kiện lạ này. Suy gẫm mãi, nhưng chưa tìm được ý nghĩa thì ông đã về tới nhà trọ.
Trường Union kiến trúc thật là đồ sộ nguy nga, Tống Thượng Tiết nghĩ đến những Giáo sư, những người bạn cùng trường, họ đã ăn cắp tiền của Chúa mà đi làm tôi mọi cho Satan. Ông thấy lòng đau xót, hai dòng nước mắt tuôn dài. Ông đến trường thì cổng đã đóng lại, đó là lệnh của ông Viện trưởng. Chính ông đích thân khuyên Tống Thượng Tiết với những lời nhẹ nhàng nhưng dứt khoát như một mệnh lệnh đinh thép: “Câu nên đến một nơi thanh vắng nghỉ ngơi một thời gian”. Tống Thượng Tiết nghĩ thầm: đây là một dịp tốt. Nghỉ ngơi một đôi ngày thì càng có nhiều thì giờ suy gẫm Kinh Thánh. Cũng có thể sau đó tinh thần sẽ được thanh thản, nhẹ nhàng để có thể làm nhiều công việc cho Chúa hơn! Ông không một lời từ chối, cúi đầu yên lặng nghe theo. Trước khi đi, ông xin được vào phòng lấy thêm một vài vật dụng cần thiết, nhưng bị từ chối, ông bị cưỡng ép phải đi theo một người khác. Hành trang “đi nghỉ mát” của ông chỉ vỏn vẹn gồm có một quản bút, mực và quyển Thánh Kinh mới vừa mua!
Xe chạy qua một vùng hoang vắng một khoảng thời gian khá dài, đến khuya mới đến được địa điểm “nghỉ ngơi”. Nhà nghỉ có tên gọi là “Bloomingdale Hospital”. Đây là một bệnh viện tâm thần nổi tiếng của Hoa Kỳ dành cho những người bị thần kinh điên loạn.
Bệnh viện gồm bảy toà nhà đồ sộ, trang bị rất đầy đủ và qui mô. Tiến sĩ Tống Thượng Tiết được đưa vào tòa nhà số 4. Sau khi vào bệnh viện tâm thần, ông mới thấy ông viện trưởng đã “chuẩn bị thật chu đáo” từ lâu. Vừa tới nơi ông được “tiếp rước” và đưa đường chỉ lối thật nhanh chóng vào “nghỉ” toà nhà náo, phòng số mấy đã dành sẵn. Nhân viên bệnh viện bắt ông tắm rửa, thay quần áo trắng của bệnh viên và bảo ông phải về giường nằm nghỉ ngơi. Ông cảm thấy thật khôi hài: Họ đã xem tôi như một người điên thật sự rồi!
II. BỆNH VIỆN TÂM THẦN.
Qua hôm sau, các bác sĩ của bệnh viện bắt đầu các cuộc thử nghiệm và trắc nghiệm trên ông. Họ thử máu, hỏi lý lịch: Cuộc đời và dòng họ tổ tiên ông. Họ muốn xác nhận bệnh tâm thần của ông là do hoàn cảnh xã hội hay do di truyền. Ông nói với các bác sĩ rằng: “Thật ra tôi cũng có khả năng để tìm hiểu chính mình có bị bệnh tâm thần hay không, vì chính tôi cũng đã nghiên cứu và hiểu rõ những thuyết di truyền học, quan hệ huyết thống của dòng họ tổ tiên. Tuy tôi không phải là một y sĩ chuyên khoa danh tiếng, nhưng tôi cũng đã từng nghiền ngẫm những tài liệu sách vở ông đã học và đọc. Nếu những lời tôi nói không đủ cho ông tin, thì ông có thể hỏi lại các sinh viên hay các giáo sư ở đại học Ohio”. Bác sĩ muốn xác nhận những ý nghĩ của ông có rối loạn hay không, ông bèn đọc cho Tống Thượng Tiết nghe một mẩu chuyện ngắn và bảo ông viết lại. Ông viết lại xong, trao cho bác sĩ xem, vị bác sĩ đọc lại, thấy chẳng những ông viết rất đúng, không sai một lỗi chính tả nào mà những chi tiết của mẩu chuyện ông cũng nhớ rất đầy đủ. Vị bác sĩ vô cùng kinh ngạc vì trí nhớ lạ lùng của Tống Thượng Tiết. Ông liền tiếp tục trình bày với vị bác sĩ tâm thần: “Trong khi theo học ở trường tôi đã từng dịch sách “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử, ngoài ra tôi cũng viết những tài liệu về lịch sử như “Cô nhi viện và Bần Cùng viện của Anh quốc”. Tôi cũng viết chú giải sách tiên tri Giê-rê-mi… Qua những bộ sách tôi dịch và viết, ông có thể khảo sát toàn bộ tư tưởng và sinh hoạt của não bộ thần kinh của tôi.” Sau khi nghe Tống Thượng Tiết trình bày về chính mình, vị bác sĩ trầm ngâm yên lặng. Ông chỉ bảo Tống Thượng Tiết nên nằm nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Riêng ông thì trong mình cảm thấy cơ thể mệt mõi rã rời. Đi vào soi gương thấy mặt mình xanh xao, gầy yếu. Ông lại có cớ để cám ơn Chúa vì Ngài cho có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mà không phải tốn kém! Ông thầm hy vọng rằng sau một vài tuần sức khỏe sẽ trở lại. Thân thể sẽ tráng kiện, tinh thần sẽ minh mẫn lại và trở về hầu việc Chúa đắc lực hơn. Lúc đó ông mới nhớ lại ba cậu bé dễ thương với chữ REST trong tay mang ý nghĩa gì riêng tư đối với chính mình. Tất cả đều nhận mạng lệnh từ Đấng Chí Cao. Thật Ngài đã chuẩn bị cho ông được nằm trong bệnh viện để ngơi nghỉ.
Bệnh viện có chế độ chăm sóc và tiếp đãi rất chu đáo và hậu hĩ. Những thức ăn đầy dinh dưỡng, nhưng ông không ham thích chi những vật chất này. Điều khiến cho khổ tâm hơn cả là mọi người trong bệnh viên không đối xử với ông như một học giả có lý trí, suy nghĩ bình thường. Ngược lại họ xem ông như một người bị bệnh điên. Thậm chí họ xem ông như một phạm nhân mang trọng tội đang bị giam giữ. Tất cả những sinh hoạt của ông đều bị kiểm soát, và ông muốn làm điều gì đều phải được bác sĩ cho phép mới được. Những y tá “chăm sóc” ông thật là cẩn mật. Họ có thái độ thật lạnh lùng và nhìn ông với đôi mắt e dè.
Bác sĩ muốn khảo sát xem có những biến thái trầm trọng nào trong tư tưởng của Tống Thượng Tiết, nên họ đã đến phòng của ông trọ tại Union Theological Seminary để lục lọi tất cả những thư từ của những người thân gửi cho ông. Họ lục soát trong rương của ông và đọc tất cả những thư từ này. Tống Thượng Tiết thấy họ làm như vậy không khỏi cười thầm cho những bác sĩ thơ ngầy này: “nếu muốn khảo sát biến chứng tư tưởng của Tống này thì phải tìm đọc những thư từ do chính Tống này viết ra cho bằng hữu thân quyến, chứ sao lại đọc những bức thư từ ngoài gửi vào. Tác giả những bức thư đó đâu có tương quan gì đến biến thái tư tưởng của Tống bỉ nhân này đâu?” Dĩ nhiên, trong thời gian Tống Thượng Tiết ở trong bệnh viện, tất cả những thư từ của những thân nhân gửi cho ông đều bị các bác sĩ kiểm duyệt và chính họ trả lời hộ. Họ đã báo cho thân nhân biết là Tống Thượng Tiết bị bệnh tâm trí nặng nên không thể viết thư hồi âm được. Những sự kiện này đã làm cho Tống Thượng Tiết rất đau đớn. Thân thể, tư tưởng đều mất hết tự do.
Tầng nhà số 4 là dành cho những bệnh nhân trầm trọng. Sức khỏe ông đã tiến triển nhiều, tinh thần phấn chấn nên các bác sĩ đã dời ông qua dãy nhà số 6. Một tuần lễ sau lại dời đến dãy số 2. Theo nhận định của bác sĩ thì bệnh tình của Tống Thượng Tiết chỉ cần nằm bệnh viện 40 ngày là có thể xuất viện. Nhưng ngày tháng cứ trôi qua, hy vọng ra khỏi bệnh viện vẫn bặt tăm. Ông không còn kiên nhẫn được nữa, bắt đầu than phiền và nặng lời với cả các bác sĩ. Các bác sĩ tức giận và giam ông vào dãy nhà số 7, là nơi giam giữ những bệnh nhân nặng và hung dữ, đánh nhau và chửi bới nhau rất thô lỗ. Trong dãy nhà giam này thật là ồn ào, mất trật tự. Tống tiên sinh không một chút thì giờ yên tĩnh để nghỉ ngơi. Ông xin được dời qua dãy nhà số 3, nhưng lời thỉnh cầu của ông không được chấp thuận. Người nằm kế ông là một người điên rất nặng. Ông ta vốn là một người rất giàu có. Hành động của ông rất kinh sợ: Có những lúc ông khóc lóc thảm thiết và la lớn lên rằng: “Ngày trước tôi đã phạm tội thông dâm cùng người cô ruột”. Một lần nọ ông cắn lưỡi, máu chảy ra lênh láng. Các bác sĩ phải vào để cấp cứu, nhưng rồi ông cũng trở lại trạng thái bình thường. Tống Thượng Tiết lân la làm quen và hỏi ông cớ sự làm sao như vậy. Ông này trả lời rằng, ông đang bị lửa địa ngục thiêu đốt, đau đớn không thể chịu đựng được nên phải cắn lưỡi tự tử.
Chiều ngày 23 tháng 6, Tống Thượng Tiết thấy người thanh niên y tá “chăm sóc” và canh phòng ông, đang ngủ gục rất say. Nghĩ rằng đây là dịp may để thoát thân, nên ông đã nhảy từ cửa sổ hành lang và thoát chạy. Trốn ra khỏi bệnh viện, băng mình chạy được vài ba dặm và ẩn mình trong một đám lúa mạch, ông hy vọng sẽ chẳng có ai rượt đuổi và theo dõi mình, nhưng chỉ một lát sau thì ông đã bị một con chó cảnh sát phát giác và bị bắt lại, áp giải trở về bệnh viện!
III. TRƯỚC VÀ SAU KHI XUẤT VIỆN.
Các bệnh nhân ở dãy nhà số 7 luôn ngày đánh đấm nhau, chửi bới tục tằng, múa may, la hét ầm ĩ. Tống Thượng Tiết không có được một giây phút yên tịnh. Lại thêm bên cạnh luôn luôn có cảnh sát viên theo dõi. Ban đêm khi đi ngủ anh ta cũng nằm ngủ bên cạnh. Công việc hàng ngày là bệnh viện bắt ông phải đan rỗ rá, đan xong lại tháo ra đan lại. Suốt ngày phải làm cái công việc vô nghĩa và vô ích ấy, lòng ông thật là đau xót. Nếu một người không ở vào hoàn cảnh đó thì không thể nào thấu hiểu được tâm trạng ấy.
Vào một đêm trăng tàn cuối tháng, lòng ông nặng trĩu buồn đau, những nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, cha mẹ cùng những người thân yêu. Ông cũng nghĩ ngợi đến quá khứ, hiện tại rồi tương lai… ý nghĩ đau buồn choáng ngập tâm tư. Tống Thượng Tiết có ý định kết thúc đời mình bằng con đường tự sát – thật là một ý nghĩ điên rồ. Trong giây phút tuyệt vọng đó, ông lại nghe được một tiếng nói êm dịu của Chúa: “Con bé mọn của Ta, Con đã được huyết của Ta chuộc về, sao lại còn có ý định từ bỏ cuộc sống mình dễ dàng như vậy?” Và ông đã trả lời với Chúa: “Chúa ôi, Con là một người hèn mọn. Con không còn hy vọng gì để có một ngày thấy lại trăng sao. Con muốn đền ơn cứu chuộc của Chúa mà không biết phải làm sao. Con thấy bây giờ sống không bằng chết, nên con muốn kết thúc cuộc sống mình”. Tiếng nói của Chúa lại tiếp tục khuyên nhủ: “Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Nếu con nhẫn nại sau khi trải qua 193 ngày thì con sẽ hiểu được cách làm thế nào để vác thập tự giá mình mà theo Ta, đi con đường vâng phục Gôgôtha”. Thế rồi những vầng bóng tối trước mặt như dần dần tan biến, vinh quang của Chúa lại rạng ngời chung quanh con người của ông. Một tuần sau, ông khẩn khoản xin được dời qua dãy nhà số 6. Ông trình bày rõ là không phải vì thần kinh rối loạn mà ông đã “trốn trại”, nhưng vì tánh tình thích tự do hoạt động. Lần này lời thỉnh cầu của ông được chấp thuận, và ông được dời qua dãy nhà số 6. Người ý tá “chăm sóc” cho ông dần dần cũng được cảm hóa, không có thái độ lạnh lùng gay gắt với ông nữa. Anh ta chấp thuẩn giúp chuyển thư cho ông ra ngoài. Vui mừng, Tống Thượng Tiết vội vàng viết một bức thư gửi cho tòa Lãnh sự Trung Hoa tại Hoa Kỳ, báo cáo là ông ta vô cớ vì người Mỹ giữ trong bệnh viện tâm thần, mất tất cả quyền tự do ngôn luận và đi lại, xin tòa Lãnh sự can thiệp với chính phủ Mỹ cho trường hợp phi lý của mình.
Ngày 30 tháng 8, một người bạn cố tri của Tống Thượng Tiết, là Giáo sĩ, Tiến sĩ Rolling Walker, mới từ Âu Châu về nước. Walker nghe tin Tống Thượng Tiết bị vào bệnh viện tâm thần liền đến Nữu Ước thăm. Tống Thượng Tiết nhìn lại người bạn cố tri thì không cầm được nước mắt, và đã tuần tự kể hết mọi diễn biến rất chi tiết cho bạn. Giáo sĩ Walker an ủi bạn và lập tức xin gặp viên Y sĩ trưởng Giám đốc Bệnh viện. Vị Giám đốc này tỏ ý rằng, nếu giáo sĩ Rolling Walker chịu ký giấy bảo lãnh thì Tống Thượng Tiết sẽ được xuất viện. Trong lúc đó, vị y sĩ trưởng này đã nhận được lệnh của chính phủ Hoa Kỳ bắt phải điều tra nội vụ của Tống Thượng Tiết. Rất có thể đây là kết quả của sự can thiệp của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hoa Kỳ. Tình hình có vẻ nghiêm trọng và nóng bỏng, viên y sĩ trưởng chưa biết phải giải quyết như thế nào thì có người muốn bảo lãnh cho Tống Thượng Tiết! Dịp may, đúng lúc kịp thì, Giáo sĩ Rolling Walker như một ân nhân cất đi cho viên Y sĩ trưởng một gánh nặng trách nhiệm. Tống Thượng Tiết được trả tự do ra khỏi bệnh viện tâm thần. Từ ngày nhập viện cho đến lúc xuất viện là 193 ngày không thừa, không thiếu một ngày. Đúng như Lời Chúa đã báo trước cho ông.
Sau này, hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết rút ra được hai bài học trong thời gian ở trong bệnh viện tâm thần: “Chúa muốn tôi luyện thành một con người biết vâng phục, với tánh tình thuần hậu. Ngày ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn. Đó là ngày ông xuất viện, cũng là ngày mà Tống Thượng Tiết nhận được cấp bằng tốt nghiệp thần đạo đích thực từ chính nơi Đức Chúa Trời”. Chúa cũng dạy cho ông một bài học thật khúc chiết về Thánh Kinh. Trong bệnh viện ông đã sử dụng 40 nguyên tắc mà Chúa đã mặc khải cho ông. Trong thời gian này ông đã đọc được 40 lần toàn bộ Kinh Thánh. Lúc ấy ông mới thực sự nhìn nhận Thánh kinh quả là Lời Đức Chúa Trời và do chính Ngài mặc khải, do Chúa Thánh Linh cảm thúc để từng câu của Thánh Kinh được viết ra. Mỗi chương của Thánh Kinh được viết thành như là vì lợi ích thiết thực của đời sống tâm linh của chính ông.
Bước thứ nhất, Chúa cho Tống Thượng Tiết nhìn những bức tranh. Chúa chỉ cho ông những điểm quan trọng của từng lời. Những bài học thâm thúy sâu sắc như những từ ngữ: Tình yêu thương, đức tin, sự xưng công nghĩa v.v… đã dạy cho ông thấu triệt toàn bộ Thánh Kinh. Quả là một bài học vĩ đại mà ông đã học được từ nơi chính Chúa trong thời gian bị giam trong bệnh viện tâm thần. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết có viết rằng: “Chỉ vài ngày sau khi xuất viện tôi đã ghi chép tất cả những phương pháp đọc Kinh Thánh của Chúa Thánh Linh dạy tôi cách tỉ mỉ. Phần lớn những điều Chúa dạy dỗ tôi, tôi đều chia sẻ lại cho người khác. Nhưng cũng có những điều Chúa bảo tôi phải giấu kín, tôi đã vâng phục Ngài và cất tận đáy lòng những điều phải giữ kín. Ban đầu tôi ghi chép những bài học ấy bằng Anh ngữ, nhưng vì biết có người đã xem lén, nên sau tôi dùng Hán tự để ghi chép”. Sau khi ra khỏi bệnh viện tâm thần, tiến sĩ Walker mời Tống Thượng Tiết đến sinh quán của Tiến sĩ là Cincinati, và lưu lại đó với gia đình Walker một thời gian ngắn. Cùng lúc ấy Viện trưởng Chủng viện Union Theological Seminary sai người mang tất cả hành trang, vật dụng của Tống Thượng Tiết trao trả cho ông. Từ đó ông không còn một liên hệ nào với Chủng viện Union, mà sự thật thì Chủng viện này cũng đã xóa tên Tống Thượng Tiết ra khỏi danh sách nhà trường từ lâu. Chủng viện Union không được chia sẻ một chút vinh dự nào với “Ông Wesley” của Trung Hoa. Về sau một Giáo sư của Chủng viện còn tuyên bố rằng: “Chủng viện Union không có một chút liên hệ nhỏ nào với Tống Thượng Tiết”. Những mặc khải mà Tống Thượng Tiết nhận được từ nơi Chúa trong thời gian lưu tại bệnh viên tâm thần Bloomingdale thật là phong phú và quan trọng. Những điều Chúa đã chỉ trước cho ông, về sau từng hồi từng lúc tất cả đều được trở thành sự thật. Có những điều lúc còn trong bệnh viện ông chưa hiểu rõ được ý nghĩa, mãi về sau, khi những điều đó thực hiện ông mới vỡ lẽ và thấu triệt những điều dạy dỗ kín nhiệm đó. Ông cho biết cũng có những mặc khải ông không dám bày tỏ cùng ai. Vì nói ra những điều đó người đời hiểu lầm và cho là ông đã quá kiêu ngạo và tự tôn. Chính ông cũng sợ người ta tôn mình lên quá cao. Tống Thượng Tiết rất thấu hiểu tâm trạng của Phao-lô khi được Chúa nhắc lên từng trời thứ ba vày bày tỏ cho ông những mặc khải trong tương lai. Đến 14 năm sau Phao-lô mới dám nhắc lại! Tông Thượng Tiết cũng chung một tâm trạng với Phao-lô như thế.
CHƯƠNG 22
HÀNH TRÌNH HỒI HƯƠNG
(NGÀY 9 THÁNG 10 NĂM 1927)
Tống Thượng Tiết ở lại Cincinati khoảng một tháng, tấm lòng thanh lặng, đợi chờ tàu để trở về quê hương Trung Quốc. Trong thời gian đó có một Mục sư mời ông về nhà dùng cơm, sau đó xin ông cho nghe một vài bản dương cầm. Trong lúc ông chơi đàn có một cô gái vừa mù vừa điếc lại vừa câm ngồi gần bên, hai tay cô tựa trên cây đàn. Khi Tống Thượng Tiết đàn xong, vị Mục sư mời cô gái tật nguyền ấy chơi đàn. Cô ngồi vào đàn và dạo lại những bản mà cô vừa nghe, đáng không sai một nét và tiếng đàn cô cũng rất điêu luyện. Có một người đến nâng bàn tay của cô lên, cô cảm biết ngay người ấy muốn yêu cầu cô đàn bản nào. Điều này gây cho Tống Thượng Tiết một ấn tượng thật sâu sắc và đó cũng là một bài học rất lớn mà ông đã nhận được sau này. Ông biết chắc đây là bài học Chúa muốn ban cho mình. Nhiều lần ông tâm sự rằng: “Chúa muốn tôi trong những ngày sau rốt này cũng giống như cô gái có ba tật nguyền ấy: Tai không nên nghe, mắt không nên thấy và miệng không nên nói điều gì không xứng đáng. Muốn làm tôi tớ của Đức Chúa Trời thì thứ nhất, đôi mắt phải không nhìn thấy thế giới tài lợi, đôi tai không nghe những lời lăng mạ, sỉ nhục, và miệng không trả lời những câu châm chọc chế giễu của người khác. Nếu làm ngược lại thì không đáng vác thập tự giá mình mà theo Chúa. Chỉ có hai bàn tay là phải luôn luôn làm công việc Chúa muốn tôi làm để hoàn tất ý muốn tốt lành của Ngài. Chúa đã dạy tôi, cuộc sống thật sự của một tôi tớ Ngài là không còn nhìn thấy thế gian và chỉ chăm nhìn vào Ngài mà thôi. Đôi tai không cần phải nghe một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng nói của Chúa. Trước những bắt bớ, sỉ nhục không cần phải biện bạch thanh minh, chỉ nên dùng môi miệng để truyền giảng Phúc âm của Chúa mà thôi. Đôi tay dành cho những cử chỉ, hành động để bày tỏ được lòng nhân từ của Ngài. Chúa cũng dạy tôi phải giống như Phao-lô là đóng đinh cùng với Chúa trên thập tự giá. “Hiện nay tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi”.
Ngày 4 tháng 10, những ngày vào mùa thu, gió lạnh. Tống Thượng Tiết giã từ người bạn tri kỷ trong lúc hoạn nạn, qua Seatle để đáp tàu biển về nước. Tàu nhổ neo ngày 11. Sống, học trên đất Mỹ được 7 năm rưỡi. Bây giờ về nước với chìa khóa vàng, huy chương vàng, văn bằng cử nhân, cao học và tiến sĩ. Nhưng trong thâm tâm ông chỉ nhớ lại giấc mơ muôn người chết đuối trên biển cả, khải tượng diệu kỳ về 5 cái bánh và 2 con cá nuôi được hơn năm ngàn người no nê và khải tượng trong giấc mơ gần đây nhất còn như in trong trí nhớ. Ông thấy mình như nằm trong một cỗ quan tài, đang mặc mũ áo của ngày ra trường với bằng cấp tiến sĩ. Ông tuyên bố với thế gian và với chính mình: “Thế gian đối với tôi như đã chết rồi, tôi đối với thế gian cũng vậy”. Đó là lời kêu gọi thật tỏ tường của Chúa đối với ông, nhưng đồng thời thế gian cũng có lời mời gọi quyến rũ thật mãnh liệt. Nó cũng trưng bày ra những lý cớ rất “thuộc linh”: Bây giờ mình là một tiến sĩ hóa học có thực tài, hứa hẹn về sau trong lãnh vực này sẽ có danh tiếng trên trường quốc tế. Trên nền tảng đó phải chăng là tiếng nói mạnh mẽ của Phúc âm. Nếu theo con đường này, không những về học vấn sẽ thăng tiến và cống hiến nhiều cho quốc gia dân tộc, đồng thời cũng tạo nên một nền tài chánh vững vàng mạnh mẽ cho Hội Thánh. Hơn nữa đối với người cha, suốt đời là một người Truyền đạo nghèo khổ, nay đã về già, cũng có thể hưởng được những ngày bóng xế phúc hạnh từ đứa con công thành danh đạt, và mình cũng trả được cái ơn sinh thành dưỡng dục cho song thân. Như vậy đó khôngn phải mình đã một lúc thực hiện được nhiều việc tốt lành sao? Những tranh chấp tâm linh tế nhị này đeo đuổi Tống Thượng Tiết suốt cuộc hành trình hồi hương. Càng gần đến địa phận Trung Quốc, cuộc tranh chấp lại càng thêm ác liệt. Ông đã dâng tất cả khả năng của mình trên bàn thờ Đức Chúa Trời: “Chẳng lẽ Chúa không dùng khả năng của mình để làm vinh hiển danh Ngài sao? Chúa không có một đường lối nào khác đối với ta sao? Nhưng rồi một lập luận của Thánh Kinh đã đánh đổ những lập luận quanh co của chính tôi… Những ưu điếm ấy này tôi coi là điều thất bại; vì tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Cứu Thế. Vâng, tất cả những điều ấy đều trở thành vô nghĩa nếu đem so sánh với điều quý báu tuyệt đối này: Biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa tôi. Tôi trút bỏ tất cả, kể như vô giá trị, cốt để được Chúa Cứu Thế…” (Philíp 3:7,8 (BDY)). Tống Thượng Tiết noi gương Phao-lô đã bỏ hết mọi danh lợi thuộc về thế gian. Khi con tàu gần đến lục địa Trung Hoa, ông lấy từ đáy rương chìa khóa vàng, huy chương danh dự… quẳng tất cả xuống biển. Câu chuyện đáng lý phải được mọi người biết này, thì ông đã không ghi lại trong quyển tự truyện của đời mình. Chỉ đề cập đến có một lần trong một trại bồi linh ở Thượng Hải. Ông chỉ giữ lại hai mảnh bằng tiến sĩ với ý định sẽ dâng lên cho song thân hầu cho cha mẹ vui lòng. Năm 1928 trong một bài giảng tại Hội Thánh Phước Châu, Tống Thượng Tiết có nhắc đến hai văn bằng tiến sĩ đó, ông cũng chỉ tặng lại cho mẹ mà thôi. Mục sư W.B Cole cũng xác nhận rằng, ông đã từng nhìn thấy mảnh bằng đó được đóng khung treo trong nhà Tống Thượng Tiết, và khi ông ghé mắt nhìn xem thì Tống Thượng Tiết nói rằng: “Những loại rơm rác này không dùng chi cho tôi được!”
CHƯƠNG 23
VỀ LẠI HƯNG HÓA
I. VỀ ĐẾN NHÀ
Vừa đến Thượng Hải, Tống Thượng Tếit liền lột bỏ âu phục và mặc lại chiếc áo dài vải thô, đáp tàu nhỏ về nhà ngày 8 tháng 11 năm 1927. Về lại cố hương Hưng Hóa sau 7 năm cách biệt, gặp lại những người thân yêu, mừng mừng, tủi tủi bắt tay nhau, ông không dám giáp mặt ngay người cha già mòn mõi nhớ con đi xa, nay có vẻ ốm yếu hao gầy, trên trán cụ in hằn thêm nhiều vết nhăn của tháng năm mong đợi. Cả gia đình đều rất vui sướng đón mừng ông trở về. Cụ Mục sư Tống Học Liên gặp con và mở lời: “Con về lại quê hương là một điều đáng mừng, vậy chúng ta nên lập một buổi cầu nguyện ngợi khen và tạ ơn Chúa”. Cụ nấu hủ tíu Hưng Hóa cho con điểm tâm tiếp: “Bã đã già, ba mong con về đây để làm một giáo sư”. Tống Thượng Tiết trả lời: “Thưa cha, con đã chết rồi, người về đây không phải là con nữa.” Cụ rất đỗi ngạc nhiên: “Chẳng phải là Tống Đại Đầu, con ta, về đây thì là ai? Chẳng nhẽ lại là ma?” Ông thưa lại: “Thưa cha: Chúa muốn con đi làm người Truyền đạo cho Ngài.” “Nếu con muốn làm một Mục sư thì hà tất phải sang Mỹ học làm gì?” Cụ hỏi các con Thượng Hòa, Thượng Bình, Thượng Chính, Thượng Trực nghĩ sao, thì họ đều trả lời: “Người ta đồn rằng, anh đã bị bệnh thần kinh nặng thật không ngoa! Anh là một người đang sống, sao lại bảo rằng mình đã chết rồi? Như vậy chẳng hay ho, may mắn gì, lại còn về nước để đi làm người Truyền đạo, như vậy thì đi du học làm gì cho khổ thân”. Mọi người đều không vui vì thái độ của Tống Thượng Tiết, lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Chỉ còn lại một mình với mẹ, bà an ủi Tống Thượng Tiết: “Cha và các anh em con đều mong con về để nở mặt nở mày gia tộc, tổ tiên. Sao con lại nói những lời khiến cả gia đình buồn lòng?” Thượng Tiết ôn tồn đáp lời mẹ: “Chúa muốn con làm người Truyền đạo cho Chúa.” Thấy thái độ cương quyết bà cũng tỏ vẻ buồn lòng, nhưng không muốn nói gì thêm nữa.
Đêm hôm ấy Tống Thượng Tiết thấy lòng mình bồi hồi dao động, tiếng Chúa lại đến nhắc nhở: “Nếu con yêu cha mẹ hơn Ta, thì không đáng làm môn đồ Ta; nếu con quả thật yêu Ta thì nên mang tất cả những gì con có giúp cho cha mẹ, anh em con, còn con thì theo ta”. Tống Thượng Tiết vâng lời Chúa đem số tiền 1.700 Mỹ kim dành dụm được khi đi làm trên đất Mỹ, trao cho cha và nói rằng: “Thưa cha số tiền này con dành dụm để cho các em làm học phí”. Ông cũng mang áo quần, vật dụng cùng sách vở của mình trao hết cho các anh chị em. Riêng mảnh bằng tiến sĩ thì ông biếu cho mẹ. Như vậy Tống Thượng Tiết chỉ còn lại một thân thể, một con người “trần trụi” nhưng đã được mua chuộc bởi huyết của Cứu Chúa Giê-xu. Đó cũng là vật duy nhất bắt buộc phải dành lại để làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Mẩu đối thoại trên đây của gia đình họ Tống trong ngày người con đi du học xa về cũng co nguyên nhân sâu xa của nó. Vốn là những ngày Tống Thượng Tiết bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, nhân viên của chủng viện Union khi nhận được thư của gia đình ông thì họ đã tự ý viết thư trả lời và nói vì lý do bị loạn thần kinh rất nặng, ông đưa vào dưỡng trí viện chữa trị nên không thể trả lời thư cho gia đình được. Gia đình bên kia bờ Thái Bình Dương phải tin đó là sự thật. Nên khi Tống Thượng Tiết về nhà, cha mẹ cũng như mọi người trong gia đình cũng bán tính bán nghi. Nhưng sau một vài tuần lễ quan sát sinh hoạt, lối sống của ông thì không thấy có dấu hiệu gì là của một người bị loạn thần kinh cả. Họ chỉ thấy một năng lực mới và một nếp sống tâm linh mới đã nhận được từ Thiên Thượng.
Một tháng sau khi hồi hương, cụ Mục sư Tống Học Liên khuyến khích con đến các Hội Thánh làm chứng các ơn phước và những việc vĩ đại kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời mình. Ngôi trường ngày xưa Tống Thượng Tiết đã theo học tại Hưng Hóa, nghe tin ông đã hồi hương với cấp bằng tiến sĩ khoa học, thì rất lấy làm vinh dự. Họ chuẩn bị một đại hội thật lớn để chào mừng người cựu học sinh của trường nay đã trở thành một tiến sĩ. Những thầy giáo cũ cũng như tất cả thính giả đều lấy làm ngạc nhiên vì không nghe Tống Thượng Tiết nói chi về khoa học, lòng yêu quê hương tổ quốc; ông cũng không kể chi đến những chuyện xa lạ trên đất nước Hoa Kỳ văn minh, mà họ chỉ nghe ông nói về 5 cái bánh và 2 con cá là bài hóa học lớn nhất trên đời mình. Một thời gian ngắn sau thì ông được mời làm giáo viên trường trung học Hưng Hóa. Tuy biết chắc chắn rằng mình đã được Chúa kêu gọi đặc biệt để làm người Truyền đạo rao giảng Phúc âm cho Chúa. Hiện thời chưa có một lối đi nào rõ ràng, thêm vào đó sự khó khăn chật vật của gia đình về tiền bạc. Phí tổn cho các em trong khi theo học ở đại học là cả một gánh nặng cho hai già, nên Tống ông phải nhận dạy một lúc tại hai trường nam và nữ trung học Hưng Hóa. Tống Thượng Tiết dạy hai môn Hóa Học và Thánh Kinh, mỗi môn 4 giờ. Một tuần ông dạy 3 ngày, 4 ngày con lại lo hầu việc Chúa. Trong thời gian đó quân phiệt Trương Tác Lâm ở Đông Bắc cũng mời ông làm giám đốc cơ xưởng hóa học chất nổ và hứa trả lương thật hậu hỉ, nhưng ông đã dứt khoát từ chối.
II. LẬP GIA ĐÌNH
Lúc còn thơ ấu thì Tống Thượng Tiết đã được cha mẹ đính hôn với một cô gái họ Du. Theo tập tục của người Trung Hoa, lý ra họ đã thành lập gia đình với nhau khi vừa hết tuổi vị thành niên, nhưng vì việc học hành còn dang dở, hơn nữa ông còn ở nước ngoài xa xôi trăm nghìn dặm nên không thể và cũng không có dịp cưới xin, nay đã thành đạt về nước thì việc cưới hỏi là việc tất nhiên.
Mùa xuân năm 1928 tiến sĩ Tống Thượng Tiết cùng cô dâu Chu Cẩm Huê đã đính ước trăm năm, và hôn lễ được cử hành trong nhà thờ Giám lý Hưng Hóa. Câu chuyện hôn lễ này không được ông nhắc đến trong quyển tự truyện của mình. Và cuộc sống lứa đôi của gia đình ông cũng không hề được nhắc đến. Người viết quyển sách này chỉ biết được một mẩu đối thoại giữa ông với ông bà giáo sĩ giáo hội Giám lý Francis P.Jones và một thanh niên Trung Hoa tại gia đình của hai vị giáo sĩ trên. Giáo sĩ Francis hỏi thanh niên Trung Hoa rằng: “Anh đã lập gia đình chưa?” “Thưa, chưa”. Thanh niên đáp. Tống tiên sinh tiếp lời thanh niên: “Tôi cũng ước mong là chưa lập gia đình”.
Lập gia đình có hơn 15,16 năm nhưng thì giờ sống với gia đình thật là hiếm hoi. Theo như ông thường kể lại, một năm mười hai tháng thì ông đã ra đi hơn mười một, chỉ còn khoảng một tháng dành cho gia đình. Những thói hư tật xấu nho nhỏ của ông người ngoài ai cũng biết, có lẽ vì cô vợ trẻ họ Du. Gia đình trẻ nào mà không có những lần cãi vã nhau, âu đó cũng là chuyện bình thường. Sau khi cưới nhau được mấy năm thì tiểu gia đình này dời về Thượng Hải. Một người kể lại một lần tình cờ đến thăm Tống Thượng Tiết đã nghe vợ nói rằng: “Anh ở nhà lúc nào cũng có thể nổi giận, thôi thì anh nên đi ra ngoài đi cho khỏe!”
III. BẮT TAY VÀO PHỤC VỤ CHÚA
Từ năm 1928, ngoài việc dạy học, Tống Thượng Tiết dồn tất cả thì giờ còn lại vào việc dạy Thánh Kinh và truyền giảng Phúc Âm lộ thiên, vị tiểu Mục sư đã từng nổi danh cả một thời dĩ vãng, nay càng được nhiều người hâm mộ. Cùng lúc ấy, đoàn truyền giáo Bê-tên ở Thượng Hãi cũng đến Tiên Du cách Hưng Hóa 80 dặm để tổ chức một Đại Hội Phấn Hưng. Chúa thăm viếng công việc làm của họ. Ngay lúc ấy, Tống Thượng Tiết cũng đang truyền giảng tại vùng Tiên Du, không hẹn mà gặp. Lửa Thánh Linh thăm viếng các tín hữu của các Hội Thánh ở nơi ấy. Lửa phấn hưng bừng bừng cháy lên. Đây là lần đầu mà ông tiếp xúc với đoàn truyền giáo Bêtên. Đoàn trưởng đoàn truyền giáo này là Mục sư Kế Chí Văn, cùng trọ chung phòng với ông. Ông được mời chủ tọa các buổi thờ phượng của các vị Mục sư, Truyền đạo trong hơn một tuần lễ. Một hôm sau khi chia sẻ Lời Chúa xong kêu gọi các vị tôi tớ Chúa lên cầu nguyện. Có hơn 100 vị nghe lời kêu gọi lên cầu nguyện và chính ông cũng cùng chung lên với những người ấy, hành động đó cho chúng ta hiểu rõ được tấm lòng khiêm nhường của ông.
Trong sự thờ phượng, Tống Thượng Tiết bài xích những người đã là con cái Chúa mà còn vái lạy trước hình ảnh những người đã quá cố. Ông bài bác việc thờ cúng đó trong phạm vi những tín hữu Cơ đốc, vì họ đã được ánh sáng của chân lý Thánh Kinh soi dọi, đã ý thức được thờ phượng thần tượng là tội mà cứ vấp phạm. Nhưng sự việc này lại đến tai đảng bộ Quốc Dân Đảng, họ cho rằng Tống Thượng Tiết là một phần tử phản động, nên ra lệnh truy tầm, nhưng Chúa đã khải thị cho biết trước một đêm nên ông đã rời khỏi Tiên Du mà trở về Hưng Hóa. Vì được chỉ thị của trung ương nên đảng bộ Hưng Hóa làm áp lực với nhà trường buộc phải cách chức giáo sư của Tống Thượng Tiết. Thật ra thì ban giám đốc của trường vốn đã đố kỵ và ganh ghét vì ông rất được lòng quý mến của học sinh, nay vừa được chỉ thị của đảng bộ nên họ lập tức chấp hành ngay.Họ bén xúi dục một số học sinh trong trường chống đối thầy giáo Tống, gây nên một bầu không khí chia rẽ. Một hôm các học sinh này họp nhau lại gây nên một tinh thần căm hờn giả tạo, kéo nhau đến phòng Tống Thượng Tiết gây sự, lấy cớ là thầy đã bôi nhọ danh dự họ giữa dân chúng vì đã tuyên bố rằng: “Các nam sinh thì chỉ thích hóa học, không giống như các nữ sinh vừa thích hóa học vừa thích học Thánh Kinh”. Họ muốn ra tay hành hung ông. Nhưng bỗng đâu trời nổi cơn giông tố ầm vang rền và mưa đá lớn ào ào đổ xuồng, những viên đá lớn rơi cả vào phòng học; đám học sinh hoảng hốt kêu la, chạy tán loạn, lo đi đóng các cửa sổ để tránh mưa đá. Tuy Chúa đã dùng sấm chớp mưa đá lớn để giải cứu Tống Thượng Tiết, nhưng ông cũng hiểu chắc Ngài đã dùng hoàn cảnh và người khác để thôi thúc ông chỉ chuyên tâm lo hầu việc Chúa. Ông đã quyết định theo con đường đầu phục trọn vẹn nên đã đệ đơn xin từ chức giáo học.
Trong lúc đó, một số bạn trẻ đã được Chúa thăm viếng trong kỳ đại hội phấn hưng vừa qua, nên ông đã tìm thêm được một số anh em đồng tâm đồng chí giúp đỡ và tổ chức được một đoàn truyền giáo nho nhỏ đến hoạt động tại làng Bình Hải. Ngày đầu têin đoàn đến làng Bình Hải với ý định chỉ lên núi cùng nhau cầu nguyện mà thôi, nhưng khi về đến địa điểm chọn làm nơi truyền giảng thì đã thấy tín hữu cũng như thân hữu ngồi chật kín cả hội trường. Đoàn đã không bỏ qua dịp tốt, đã truyền giảng một bài, Chúa đã thăm viếng ngay đêm đó. Sau bài giảng, nhiều người khóc lóc ăn năn, xưng tội và cầu nguyện tin nhận Chúa. Mục sư quản nhiệm Hội Thánh địa phương họ Lưu, vợ bị bệnh tim nặng, hôm ấy bị ngất xỉu tại hội trường, tưởng như đã qua đời hẳn rồi, ông than phiền cùng Chúa: “Tại sao Chúa để con đi vào con đường đau thương quá thể thế này?” Tống Thượng Tiết an ủi: “Bà không đến nỗi phải qua đời đâu”. Rồi đến bên giường cầu nguyện cho bà. Mọi người trong đoàn truyền giáo đều an ủi ông, còn ông thì đã nghĩ đến việc lo mai táng cho vợ. Ngày hôm sau, đoàn truyền giáo vẫn lấy đức tin ra ngoài tổ chức buổi truyền giảng lộ thiên. Trong nhật ký của Tống Thượng Tiết có ghi rằng: “Khoảng trống ngoài thiên nhiên là hội trường lý tưởng của chúng tôi và những tảng đá nhô lên cao là những toà giảng thiên nhiên rất đẹp của chúng tôi”. Buổi truyền giảng lộ thiên ấy thu hút số khán thính giả rất đông và Chúa cho kết quả rất đáng khích lệ. Trên đường về, Tống Thượng Tiết nói với mọi người trong đoàn truyền giáo rằng: “Chắc chắn không còn điều gì nguy hiểm cho bà Mục sư nữa”. Quả nhiên, về đến nhà thấy bà đã hồi tĩnh và đang nằm tịnh dưỡng trên giường. Do đó làng Bình Hải trở nên một nơi mang lại thắng lợi đầu tiên cho đoàn truyền giáo nhỏ này.
Sau đó đoàn đi đến hoạt động tại những nơi khác như Đại Cam Sư, Tĩnh Đức và Đông Lệ. Để kết thúc vòng truyền giáo này họ trở về Hưng Hóa. Về đến nhà, Tống Thượng Tiết tổ chức ngay một lớp Thánh Kinh ngắn hạn tám ngày tại Thiên Mã Sơn. Có khoảng 50 thanh niên theo học. Mỗi ngày họ lên núi học Thánh kinh và sau khi được huấn luyện họ trở về Hội Thánh địa phương của mình trong vùng Hưng Hóa và Tiên Du để phục vụ. Giáo hội Giám lý tại Phước Châu nghe và thấy những việc làm của Tống Thượng Tiết thì biết rằng Chúa đã cùng làm việc với ông. Vị chủ nhiệm đặc trách truyền giáo của giáo hội là Mục sư Frank T.Kariche có ý định đi quan sát những công việc của đoàn truyền giáo Tống Thượng Tiết, nên ông Kariche đã mất hai ngày đường bộ và đường sông để đến được nơi đoàn truyền giáo đang hoạt động. Ông mục kích tận mắt lối sống của họ, chẳng những họ ăn uống đơn sơ kham khổ mà lối sống hiệp một, đồng tâm nhất trí hầu việc Chúa của họ thật đáng quí. Năm mươi người trẻ tuổi cộng sự ấy nhất tề tuân theo sự hướng dẫn và lãnh đạo của Tống Thượng Tiết. Như ngày xưa Timôthê và Sila đã thuận phục Phao-lô vậy.
Khi trở về lại Phước Châu Mục sư Karich có ghi lại những ấn tượng về đoàn truyền giáo như sau: “Những chương trình truyền giảng của ông Tống Thượng Tiết là những công trình phố hợp chặt chẽ giữa những bản Thánh Ca và bài thuyết giảng giáo lý. Những bài hát của họ là những đoản ca do chính Tống Thượng Tiết soạn dùng để nhấn mạnh đến chủ đề và nội dung của những bài thuyết giảng. Những đề tài xoay quanh sự hiện hữu của Thượng Đế, Tình yêu thương của Ngài, Giê-xu là Chúa Cứu Thế, tội lỗi, sự ăn năn, niềm tin, cuộc sống của một Cơ Đốc nhân… Phong cách thuyết giảng của Tống Thượng Tiết rất giống với Billy Dunday, không bị gò bó trong phạm vi của bục giảng mà ông thường đi tới đi lui, có khi vượt qua khỏi cả bàn Tiệc Thánh, xuống đứng giữa hội trường nhìn trái nhìn phải, vừa đi vừa giảng rất tự nhiên, nhiều khi chỉ thẳng vào một thính giả như trực tiếp nói riêng với người ấy… Thường thì ông trở về bục giảng, trong tư thế rất trang nghiêm để kết thúc bài thuyết giảng của mình. Kết luận xong là kêu gọi thính giả tiếp nhận Chúa. Số người lên xưng nhận Giê-xu là Chúa Cứu Thế, thường rất đông”
CHƯƠNG 24
HẦU VIỆC CHÚA TẠI QUÊ HƯƠNG
(1928-1929 )
Mùa hè năm 1928, Tống Thượng Tiết khao khát có thì giờ và cơ hội để dưỡng linh, vì ông nghĩ rằng một người truyền đạo của Đức Chúa Trời không thể nào thiếu sự nghỉ ngơi và bồi dưỡng tâm linh. Chúa đã mở đường cho ông và đưa ông đến trại hè Cô-lĩnh thuộc tỉnh Cửu Giang (Cô-lĩnh là một nơi nghỉ mát nổi tiếng của Trung Hoa). Mục đích Tống Thượng Tiết đến trại hè là để được nhận, nên ngoại trừ một lần được mời làm chứng về việc Chúa đã kêu gọi ông đi hầu việc Ngài, thì ông không nói thêm một điều gì khác. Dự trại hè xong, về lại Hưng Hóa, ông thấy Chúa Thánh Linh đã không ngừng thăm viếng công việc Chúa. Người em út của ông cũng được Chúa thăm viếng và rất nóng cháy nên đã tổ chức một đội ngũ hướng đạo sinh Cơ đốc. Chúa hướng dẫn họ đến gần những hí trường của các làng mạc xa xôi hẻo lánh, tại đó tham dự những chiến trận thuộc linh đối kháng với ma quỉ. Chúa đã vùa giúp họ, nên khiến nhiều người đã rời các cuộc vui tại các kịch trường để đến nghe những ca khúc, những bản nhạc tôn vinh, ca ngợi Chúa của đoàn hướng đạo Cơ đốc này. Họ đã dùng những nhạc khí Trung hoa để hòa tấu với những lời làm chứng về Chúa tuy đơn sơ nhưng chân thành tận đáy lòng họ. Họ hát và hướng dẫn quần chúng hát những đoản ca do Tống Thượng Tiết soạn trong khóa học Thánh Kinh trên đỉnh núi Thiên Mã. Lời của những bài đoản ca này được trích ra từ Thánh Kinh. Chẳng bao lâu những bài hát này trở nên thịnh hành trong các làng mạc. Những em bé chăn trâu, những thôn nữ trong làng đều biết hát những bài ca tôn vinh Chúa trong khi làm việc.
Cuối thu năm ấy (1928) Tống Thượng Tiết cùng với một giáo sĩ tây phương và một anh em khác tổ chức một đoàn truyền giáo ba người hoạt động chung quanh vùng. Tuy có ít người, mỗi nơi chỉ lưu lại vài ngày, nhưng được Chúa Thánh linh thăm viếng đặc biệt. Đến nơi nào cũng được nồng hậu tiếp đón và nhất là Chúa cho những kết quả truyền giảng thật là tốt đẹp. Nhưng tiếc thay các Hội Thánh địa phương thiếu nhân lực nên không duy trì được ngọn lửa phấn hưng ấy lâu. Kinh nghiệm qua những chuyến truyền giáo này, ông đưa đến một đề nghị rất thiết thực: “Mong rằng các Thần học viện cũng như các trường Kinh Thánh trong nước không những chỉ đào tạo ra những sinh viên với mảnh bằng tốt nghiệp để đi đến các Giáo hội tìm một công việc làm, mà phải đào tạo thành một người truyền đạo có tầm vóc thuộc linh để phục vụ Chúa”. Theo quan điểm của Tống Thượng Tiết thì các Thần học viện không nên trao văn bằng cho sinh viên tuỳ theo thành tích học vấn của họ, vì như thế có khác chi những trường học của thế gian? Mà chỉ trao văn bằng tốt nghiệp cho những sinh viên có sự sống thật của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết tin chắc rằng tình trạng khủng hoảng thuộc linh của Hội Thánh Trung Quốc không phải vì thiếu những người đi học thần đạo ra làm truyền đạo, mà chỉ thiếu những người truyền đạo thật sự có sức sống thuộc linh để hầu việc Chúa. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời bắt buộc phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời không đặt nặng vấn đề tri thức hiểu biết của thế gian mà điều quan trọng là có sức sống mới thuộc linh hay không. Người truyền đào có sức sống thì kết quả của việc làm rất rõ ràng như vàng bạc châu báu so với cỏ khô, rơm rác. Những nhận định trên của Tống Thượng Tiết rút ra từ kinh nghiệm qua những chuyến truyền giảng tại các Hội Thánh địa phương. Chỉ có những Hội Thánh có những tôi tớ Chúa thật sự có sự sống thuộc linh mới duy trì được ngọn lửa Thánh Linh sau khi một sứ giả phấn hưng được Chúa sai phái đến.
Tháng Giêng năm 1929 do lời mời của các Hội Thánh miền nam tỉnh Phước Kiến, Tống Thượng Tiết đã đến vùng trung châu để chủ tọa những buổi bồi linh và truyền giảng. Số người đến tham dự mỗi ngày trung bình khoảng 7,8 trăm. Sau đó ông cũng đến truyền giảng ở Hạ Môn, Tuyên Châu. Chúa có thăm viếng đặc biệt, làm nhiều phép lạ, số người tin nhận Chúa ngày càng gia tăng. Ông có cảm tưởng rằng Chúa đã cho phép rời khỏi Giêrusalem (các làng mạc và địa phương Hưng Hóa) để đi đến Samari là tỉnh thuộc Phúc Kiến và sau đó là chu du khắp thiên hạ. Đây là thời điểm “đi khắp thế gian giảng Tin Lành…” nhưng sao Chúa vẫn gọi ông về Hưng Hóa để chờ đợi ý chỉ của Ngài. Về Hưng Hóa ông thành lập một trường Kinh Thánh có 5 thanh niên theo học. Một mặt họ cùng nhau đi truyền giảng ở những vùng lân cận, về “trường” thì học hỏi nghiên cứu thêm Lời Chúa. Giai đoạn đầu, trường sinh hoạt tại đảo Nhật Nam, nơi đây họ gặp được ba chị em thật lòng kính yêu Chúa. Do tình yêu Chúa thúc giục, ba chị em này sau khi học xong trung học đã bỏ quê hương, xa lìa mọi cám dỗ của trần gian, khước từ tất cả những mời gọi của vật chất để đến một nơi như một hoang đảo xa xôi hẻo lánh sống hy sinh kham khổ.
Qua tinh thần phục vụ của họ cũng như những bông trái gặt hái được Tống Thượng Tiết đã rút ra được bốn bài học lớn: Thứ nhất là niềm tin; thứ đến là hy sinh chính mình để làm việc cho Chúa Giê-xu; thứ ba là thật sự có một tình yêu linh hồn đồng bào; và cuối cùng là có một sức chịu đựng mọi gian khổ cách bền bĩ. Họ là những người gieo giống và đã tạo nên một đồng lúa chín vàng tại hải đảo Nam Nhật để rồi Chúa dùng bàn tay của những người thuộc trường Kinh Thánh đến gặt, mang những bó lúa vào kho cho Chúa. Rất nhiều người và gia đình tại hải đảo xa xôi quê mùa này đã đập vỡ các thần tượng bằng đất, và chỉ các tượng bằng gỗ thì làm củi đun bếp!
Địa điểm thứ hai họ đến hoạt động là Phượng Tích, nơi chôn nhau cắt rốn của Tống Thượng Tiết. Lối làm việc của đoàn truyền giáo và những sinh viên thần đạo là: hễ thấy những đôi vợ chồng nông dân cày cấy dưới ruộng sâu, thì ông cũng như môn đệ của ông cũng xuống cấy cày với họ để được gần gũi và cá nhân chứng đạo cho họ trong khi làm việc. Như vậy, đêm đến các nông phu đó sẽ vui vẻ nhận lời đến nhà thờ để nghe truyền giảng.
Sau đó Đoàn Truyền giáo xuống làng Long Huê. Trong vài ngày đầu những người đến nghe có thể đếm được trên đầu ngón tay, nhưng sau đó Chúa cho những phép lạ diệu kỳ xảy ra. Có những người được thiên sứ đến trong giấc mơ chỉ trích những lỗi lầm và họ truyền miệng với nhau nên số người kéo đến nhà thờ ngày càng đông đến đỗi hội trường không còn một chỗ chen chân.
Sau Long Huê, Đoàn Truyền giáo đến hoạt động tại làng Hà Đình, nơi đây việc truyền giảng gặp khó khăn lạ thường. Sau khi họ hiệp ý cầu nguyện tìm biết ý Chúa thì mới thấy rõ nguyân nhân là Hội Thánh nơi đây có một số trữ kim khá lớn, sau những chi tiêu của hội còn dư nhiều tiền thì Mục sư và ban quản trị đem chia cho các tín hữu giống như chia phần thịt cúng vậy. Những tín hữu lâu năm thấy không cần phải nương cậy nơi Chúa nữa, còn số tân tín hữu thì vào hội để được dự phần chia tiền. Lẽ dĩ nhiên sự phân chia khó được phân mình nên gây nhiều chia rẽ trong giáo hội. Sau những công việc làm của các sinh viên thần đạo, tấm lòng cứng cỏi của các tín hữu tại nơi đó như bị gươm thiêng của Thánh Linh xuyên thủng nên họ kêu lên những lời ăn năn hối cải rất bi ai thống thiết, và Chúa đã tha thứ đổ phước xuống trên họ.
Từ Hà Đình đoàn truyền giáo xuống Phong đình, đoàn lưu lại đây khoảng mươi ngày rồi đến Huỳnh Thạch. Lúc ấy vào giữa mùa hè, tại địa phương này đang bị một trận dịch hạch rất lớn, số tín hữu cũ và mới đến nghe truyền giảng rất ít, nên các sinh viên trong đoàn phải ra đứng ngoài đường để mời khách bộ hành qua lại vào nghe truyền giảng Phúc âm. Những người được mời vào, thường là những người vừa mới đi mai táng người thân mới qua đời từ nghĩa trang về, khi họ nghe về Tin Lành, nhận thức được đời người thật phù du ngắn ngủi nên họ rất vui mừng tiếp nhận sự sống đời đời từ nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Những Hội Thánh địa phương vừa nêu trên, phần lớn không mấy chú trọng đến phần tăng trưởng tâm linh bề trong của Cơ đốc nhân và sự phấn hưng của Hội Thánh mà chỉ chú trọng đến những công việc phụ thuộc như bài trừ nạn mù chữ, bình dân giáo dục, những công việc có tính cách xã hội và họ còn phải báo cáo thành tích kết quả về tổng hội trung ương. Nên khi thấy những việc làm có tính cách thuộc linh của những sinh viên thần học của Tống Thượng Tiết họ thường bày tỏ thái độ tiêu cực chống đối. Ông cũng như các anh em cảm thấy thật nản lòng, nhưng họ vẫn được Chúa thúc giục nên vẫn cứ tiếp tục tiến bước đến những nơi khác rao giảng danh Cứu Chúa Giê-xu. Đoàn truyền giáo đến một nơi gọi là Mộ Bố là một vùng đất cát mênh mông, đất thì rộng nhưng dân cư thưa thớt, đi đến nơi nào cũng thấy còn lại những dấu vết của chiến tranh. Cũng vì dân làng trải qua nhiều cuộc chinh chiến tàn khốc, nên những vết thương đau đớn như vẫn chưa nguôi ngoai. Dân làng này tiếp nhận tình yêu của Chúa Cứu Thế Giê-xu dễ dàng hơn những nơi khác. Làng Thuận Xương cũng ở trong tình trạng tương tự, nhà thờ thì bị quân đội chiếm đóng hơn nửa năm qua. Khi đoàn truyền giáo của Tống Thượng Tiết đến với dân làng thì cũng là lúc quân đội mới rút khỏi nhà thờ.
Từ Thuận Xương, Đoàn Truyền giáo băng qua Dương Khẩu, đến một nơi gọi là Diên Bình và họ tổ chức một đại hội tại đây. Các nam nữ sinh viên thần học các nơi nghe tin, liền qui tụ về để nghe những sứ điệp bồi linh và truyền giảng. Danh Chúa rất được vinh hiển qua kỳ đại hội này. Những lời ngợi khen Chúa phát ra tự đáy lòng những thanh niên thực tâm ăn năn hối cải. Nhưng Satan cũng giận hoảng phá quấy rất hung hăng. Những điều kỳ diệu trong đại hội được đồn đãi ra trong dân chúng rất nhanh, bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng địa phương nghe được, liền cho người giả dạng thân hữu vào trong đại hội để nghe truyền giảng, trong khi diễn giả đang rao giảng Lời Chúa thì họ cố tình làm ồn ào gây huyên náo để phá hoại. Tống Thượng Tiết biết rất rõ dụng ý gian ác đó, nhưng ông vẫn một lòng nhờ cậy vào Chúa, vẫn một ngày hai lần lên tòa giảng lớn tiếng truyền rao Phúc âm cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Có một cô kia vốn là một sinh viên thần đạo, sau khi thật sự ăn năn tin nhận Chúa, cô dùng đủ mọi cách để mời cả gia đình đến nghe truyền giảng Phúc âm. Nhưng đa số người trong gia đình không mấy quan tâm đến sự cứu rỗi nên họ nghe giảng với thái độ mệt mõi, vừa nghe vừa ngủ gà ngủ gật, người mẹ thì đôi mắt đã kém đôi tai lại nghểnh ngãng. Nhưng sau đó, thân sinh của cô cảm thấy rất thích thú khi được nghe giảng luận về sự cứu rỗi, và cả cha mẹ cô đã tiếp nhận Chúa. Cô này rất đỗi sung sướng và khoe với mọi người rằng: “Tống tiến sĩ đến truyền giảng nơi đây là vì thương xót gia đình chúng tôi”.
Tống Thượng Tiết định tổ chức đại hội truyền giảng này khoảng mười ngày, nhưng thình lình ông ngã bệnh nặng. Các bác sĩ đều khuyên ông nên rút ngắn kỳ đại hội lại và về nhà tĩnh dưỡng. Nên sáng tinh mơ hôm đó, khi bình minh chưa ló dạng ông đã dùng một chiếc tàu nhỏ rời khỏi làng Diên Bình. Chỉ vài giờ sau đó bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng phái người đến tầm nã Tống Thượng Tiết, dĩ nhiên họ không thể tìm thấy ông nơi ấy, họ chỉ có thể trương lên những biểu ngữ: “Đả đảo Tống Thượng Tiết” để tỏ thái độ phản đối ông mà thôi.
Sau khi bị tầm nả và đả kích ở Diên Bình, Tống Thượng Tiết nhận được một bài học lớn: Không thể đi trước ý định Đức Chúa Trời, ông ý thức một cách rõ ràng rằng nếu chỉ cậy sức mình để đi ra “làm việc Chúa” thì sẽ bị roi vọt của Ngài không sai. Ông cũng biết rằng, lần này là Chúa đuổi mình về Hưng Hóa, nên ông đã cúi đầu vâng phục trở về quê cũ để phục vụ Chúa và chờ đợi tiếng phán của Ngài.
Những ngày hoạt động tại Diên Bình, Tống Thượng Tiết thường lên ngọn núi, mệnh danh là “Núi Cầu Nguyện”. Ông được biết Diên Bình có một vị Mục sư họ Hứa mỗi ngày lên đồi này vì tình trạng hội chúng tại Diên Bình mà khóc lóc khẩn thiết kêu cầu cùng Chúa, Mục sư Hứa đã kiên trì cầu nguyện như thế trong suốt 30 năm. Giáo hội nhờ sự cầu thay đó mà được Chúa thăm viếng và được hưng thịnh. Trên núi cầu nguyện đó có một tảng đá thật lớn, bằng phẳng nhưng nằm trên cao và cheo leo không thể dùng để quỳ gối cầu nguyện được, nhưng về sau Diên Bình bị động đất và tảng đá ấy đã được đặt xuống một mặt bằng phẳng rất thích hợp cho việc hiệp chung cầu nguyện. Sau khi Mục sư Hứa qua đời, nhiều tín hữu lên núi cầu nguyện thì thấy thiên sứ đi lại trên tảng đá đó mà ca hát, ngâm thơ tôn vinh Chúa. Họ nghĩ rằng, lúc còn sinh thời Mục sư Hứa thường nhật lên núi này cầu nguyện nên họ đồng thanh đổi tên núi thành tên “Núi Cầu Nguyện”. Và cũng gọi tảng đá lớn bằng phẳng đó là “Tảng Đá Cầu Nguyện”.
Khi Tống Thượng Tiết lên “Núi Cầu Nguyện” thấy được “Tảng Đá Cầu Nguyện” thì hồi tưởng lại người tôi tớ trung thành của Chúa, ông tâm tình với các bạn cùng lên núi cầu nguyện rằng: “Người chăn chiên hiền lành, vì chiên mình phó sự sống mình. Mong rằng tất cả các tôi tớ của Chúa đều được tràn đầy tình yêu của chính Chúa để nuôi nấng chiên của mình”.
CHƯƠNG 25
SỰ RÀNG BUỘC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (1931)
Tống Thượng Tiết quan niệm rằng, một người truyền đạo của Đức Chúa Trời phải được huấn luyện tương đối kỹ về giáo lý căn bản Thánh Kinh. Nên ông đã phân chia 100 Hội Thánh ra thành 10 khu huấn luyện, và ông đích đến từng khu một để mở lớp huấn luyện Thánh Kinh. Ngoài ra ông còn khuyến khích dấy mạnh chương trình thờ phượng gia đình lễ bái. Trong năm 1930 ông đã tổ chức lại việc thờ phượng cho hơn 1000 gia đình. Kết quả những lớp huấn luyện do ông chủ trương đã đào tạo được rất nhiều những lãnh tụ của các giáo hội địa phương, mỗi khu trung bình có chừng 40 hay 50 vị. Vì các tôi tớ Chúa của Giáo hội Giám lý thường được điều động hay thuyên chuyển đi nhiều nơi khác để hầu việc Chúa, nên ông cũng tổ chức những lớp huấn luyện cho các tín hữu thanh niên để họ cũng có thể phụ giúp các vị truyền đạo hay Mục sư tại các Hội Thánh địa phương. Cuộc sống đạo đức Cơ đốc nhân của họ cũng là bằng chứng sống động cho Chúa. Đức Thánh Linh thăm viếng đặc biệt hai chương trình huấn luyện này. Các Hội Thánh khác thấy Chúa ban phước như vậy nên cũng đạt thư đến mời Tống Thượng Tiết đến giúp đỡ họ tổ chức những lớp huấn luyện. Cho nên ông đã có dịp đi thăm nhiều nơi ở Mãn Châu, Phước Thanh, Vĩnh Xuân, Đức Hóa và Hải Sơn… để mở các khóa huấn luyện này.
Tống Thượng Tiết đã nhận xét là huấn luyện cho các tín hữu có phần dễ dàng hơn huấn luyện cho các vị Mục sư, Truyền đạo. Lý do chính là các vị ấy chưa có sự sống, chưa thấy được chân lý và tấm lòng chưa được khai minh. Muốn họ ăn năn hối cải như là chuyện đội đá vá trời. Ông ý thức rõ rằng, những nhà truyền đạo mà chưa có sự sống của Chúa thì chẳng những không cứu vớt được ai mà ngược lại còn là những tảng đá vấp chân cho nhiều người khác. Nhưng đồng thời ông cũng rất cảm thông với họ vì thường thường những người đi hầu việc Chúa gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, thù lao của họ thật là ít ỏi, nên phần lớn phải kiếm thêm một nghề tay trái để có thể đủ sống. Một người đã dâng mình hầu việc Chúa mà còn phải vương vấn với các công việc của trần gian chỉ còn rất ít thì giờ tương giao với Chúa, cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa làm sao có thể sinh bông trái tốt đẹp cho công việc Chúa. Thù lao của họ đã thấp, lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự đóng góp tài chánh của các tín hữu, cho nên thường xảy ra các tệ nạn, thứ nhất là tín hữu sẽ nhìn các tôi tớ Chúa như những chủ nợ, họ sẽ có những thái độ vừa chán ghét vừa lo âu, coi như một gánh nặng cho họ. Về phía các tôi tớ Chúa thì xem tín hữu như những người thi ơn, nên có những vị đã có những hành vi tiêu cực, nịnh bợ, khiến cho một số tín hữu tự cảm thấy mình như kẻ bề trên phải được kính nể. Thậm chí có những người phạm tội, các Mục sư cũng làm lơ không dám bẻ trách sửa trị. Thêm một điều khá quan trọng nữa là nền tài chánh của giáo hội đều ở trong tay những giáo sĩ tây phương cho nên trên thực tế, các ông ấy trở nên những chủ nhân mướn các Mục sư, Truyền đạo làm việc theo ý của họ. Nếu không tuân hành mệnh lệnh của họ thì họ sẽ hoán chuyển đến một công việc khác. Những giáo sĩ tây phương lúc bấy giờ đều thuộc phái tân thần học. Những tôi tớ Chúa (người bản xứ) phục vụ dưới hệ thống đó thì phải thi hành những mệnh lệnh từ cấp trên phán xuống không cần biết đúng hay sai. Nên Tống Thượng Tiết cũng phải trải qua nhiều khó khăn.
Tính đến kỳ lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó năm 1930, Tống Thượng Tiết về nước đã trên hai năm rưỡi, ông đã tự xem mình như những người bình thường khác, nên đã quên đi tất cả những gì mình có, chỉ một lòng tin vào Chúa Giê-xu. Những mũi tên độc bắt đầu bắn vào tư tưởng của ông. Một tiến sĩ hoá học, một giáo sư đại học, đương nhiên lương hàng tháng tối thiểu cũng phải được 5, 6 trăm. Nhưng trên thực tế, ông đã làm những công việc thật vất vả, vai mang nặng hành lý, vượt đèo băng suối, đầu đội trời không mủ, nón, chân không giày, dép. Mồ hôi tuôn đổ qua những chặng đường gian nan vì Tin Lành, công lao ấy tiền công nào bù đắp lại? Hay chỉ những dèm chê của bạn hữu và thân quyến? Thời gian thấm thoát trôi qua, ông bà Tống Thượng Tiết đã có hai con, nhu cầu gia đình ngày càng nhiều, mà tiền kiếm được do công lao vất vả của ông làm ra không đủ để nuôi gia đình, Tống Thượng Tiết thầm nghĩ như thế này chẳng hóa ra Chúa đã bạc đãi mình sao? Trong tâm trạng hoài nghi chán nản đó, thì Lời của Chúa đến với ông như vừa răn trách như vừa an ủi: “Con không thể vâng phục Ta cho đến cuối cùng sao? Con không thể dâng hiến trọn vẹn cho Ta sao? Việc của con Ta đều biết cả, và những thất bại của con ngày hôm nay giúp những thành công cho mai sau. Vả lại con cũng nên thấu hiểu chân lý này: “Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, là cho những kẻ đã được gọi theo ý muốn Ngài đã định”. Nghe được tiếng của Chúa, ông chỉ biết lặng thinh suy gẫm và không dám có một lời nào. Chẳng bao lâu sau, Tống Thượng Tiết nhận được thư mời đến chủ tọa đại hội tại Nam Xương và Nam Kinh. Ông nghĩ rằng đây là thì thuận tiện, thời vụ đã chín mùi. Chúa đã mở đường để đi truyền giáo phương xa, nhưng khi trình hỏi ý Chúa thì kết quả ngược lại, Chúa bảo phải đợi chờ thêm một thời gian nữa, rồi hãy ra đi, vì giờ của Ta chưa đến. Tống Thượng Tiết vì quá nóng lòng ra đi truyền giảng nên không thể nán lại lâu hơn nữa. Như con ngựa bất kham, tràn đầy sinh lực và chỉ muốn bươn chạy đến trước, ông chuẩn bị hành trang để đi đến tỉnh Giang Tây. Bỗng nhiên toàn thể châu thân ông mọc lên những chiếc mụn nhọt, trông rất kinh tởm, nhưng ông vẫn không tin đây là sự ràng buộc ngăn trở của Chúa. Nghĩ rằng, lộ trình đến tỉnh Giang Tây cũng mất khoảng ba, bốn ngày, trong thời gian đó chắc các mụn nhọt này cũng sẽ lành lặn. Ông không một chút băn khoăn về sự ngăn trở này, chỉ toan tính cho cuộc hành trình sắp đến. Sáng sớm ngày khởi hành, bất thần Tống Thượng Tiết lâm bệnh rất nặng, thượng thổ hạ tả. Bụng đau quặn thắt không thể nào chịu nỗi. Đau đớn và kiệt sức rất nhanh, ông yếu mòn tưởng chừng như không qua khỏi, Tống Thượng Tiết liền đến với Chúa và xưng tội không vâng phục cùng Ngài và khẩn cầu nguyện: “Lạy Cha, xin ý Cha được nên, nếu Cha muốn suốt đời con làm việc giữa chốn nông thôn thì con cũng xin vâng phục Cha”. Lời cầu nguyện vừa dứt thì cơn đau đớn quặn thắt cũng hết ngay. Sau khi khỏi bệnh Tống Thượng Tiết được mời đến Bằng Hải để hướng dẫn một đại hội phục hưng của thanh niên, sinh viên tổ chức. Trong kỳ đại hội này có nhiều người đã được tái sanh. Sau đó ông lại được mời đi chủ tọa trại hè của các lãnh tụ các giáo phái tại khu đảo kế cận đó. Kinh Thánh quả của trại hè bồi linh này là có thêm nhiều nữ truyền đạo và nữ giáo viên tình nguyện đi đến nhiều nơi để truyền giảng Phúc âm.
CHƯƠNG 26
LÊN MIỀN BẮC (1930)
Tống Thượng Tiết đã hoàn toàn đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-xu và bằng lòng suốt đời hầu việc Ngài tại quê hương. Nhưng ý chỉ của Chúa không phải là muốn ông chỉ truyền giảng cho gia đình và quanh quẩn nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng muốn rèn luyện ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn.
Trước khi Tống Thượng Tiết từ ngoại quốc trở về thì Hưng Hóa là một vùng nhiều thổ phỉ. Cướp của, đốt nhà, giết người là chuyện cơm bữa. Nhưng chỉ ba năm sau khi ông về nước thì nơi đây trở nên một vùng yên tĩnh, dân chúng an cư lạc nghiệp, rất thuận tiện cho ông đi đây đó để truyền giảng Tin Lành. Bỗng nhiên, các nhóm thổ phỉ lại nổi dậy cướp phá dân lành. Đi đến đâu cũng nghe bàn tán xôn xao việc cướp của giết người. Khi nghe tin không lành này thì các giáo sĩ của hội Giám lý đã nhanh chân rời khỏi vùng bất an này. Nhưng công cuộc truyền giáo tuần hoàn của Tống Thượng Tiết không thể nào ngưng hoạt động. Trong ba năm hoạt động trong các làng mạc này thì cũng chỉ có những người đồng đức tin, đồng tâm đồng chí trong Hội Thánh hợp tác với ông. Họ thật sự có tâm tình hiệp một, yêu thương nhau như ruột thịt. Không hiểu vì duyên cớ nào, tự nhiên không hẹn nhau mà họ đã di tản đi nơi khác khiến cho ngay cả những người thân thiết với ông cũng đâm ra nghi ngờ. Có nhiều lời đàm tiếu nhỏ to về ông, khiến cho ông mất hết uy tín không còn đất đứng tại quê hương nữa. Chúa đã khép cánh cửa truyền giáo ở quê hương của Tống Thượng Tiết, nhưng đồng thời Ngài lại mở cửa truyền giáo nơi khác rộng rãi hơn cho ông. Viên giám đốc của giáo phái Giám lý thấy tình trạng hỗn loạn của các làng mạc trong lúc thổ phỉ nổi lên cướp phá thì khó có thể tổ chức truyền bá Phúc âm, họ lại thấy Tống Thượng Tiết cũng đang trong thời rảnh rỗi, nên sai phái ông lên miền bắc để nghiên cứu chương trình hoạt động chống nạn mù chữ. Ông ra đi với nhiệm vụ này, tuy trong thâm tâm không lấy gì làm thích thú. Nhưng lúc nào cũng tin tưởng rằng mục đích Chúa kêu gọi ông hầu việc Ngài không phải chỉ là làm những việc bên lề, nhưng để làm một cuộc phấn hưng cho Hội Thánh của Chúa. Lần này Chúa sai để về miền bắc thì ông cũng lấy lý do gì không thuận phục ý Ngài. Tống Thượng Tiết vừa qua cơn bạo bệnh, thì người nhà lần lượt kẻ trước người sau lây bệnh nguy khốn đó. Người bị bệnh nặng là vợ ông và cậu bé Tống Thiên Trình, cũng còn có tên là Xuất Ai Cập, con mời sinh chưa được ba tháng, đã được Chúa rước về nước Ngài. Ông và bà còn đang buồn về nổi phân ly, thì lại càng buồn thêm. Chúa đã dùng câu chuyện của Môise, sau khi sanh ra cũng được ba tháng cha mẹ phải đem dấu vào bụi lau sậy bên ven sông, để an ủi hai ông bà. Sau đó Chúa phán với Tống Thượng Tiết: “Hỡi con bé mọn của Ta, hãy tỉnh dậy, ngày đã đầy trọn, giờ đã điểm đây là lúc con phải rời khỏi quê hương để đến nơi mà Ta sẽ hướng dẫn con đi”. Nghe tiếng Chúa truyền ông xin hoàn toàn vâng phục Lời Chúa, vác thập tự giá mình buộc lên con đường đến Gôgôtha.
Ba ngày sau khi chôn cất đứa con trai thân yêu. Tống Thượng Tiết giã từ gia đình, chỉ mang theo một gói hành trang thật nhẹ, lên tàu đến Thượng Hải.
Rời Hưng Hóa, Tống Thượng Tiết không còn quay lại công việc mà ba năm qua tiên sinh đã thực hiện tại cố hương. Sau này trong hồi ký, Tống Thượng Tiết đã viết: “Từ khi trở lại quê hương, trong ba năm đầu, tôi đã “chạy bá vơ và đánh gió”. Nào là Cơ đốc giáo dục, nào là xóa nạn mù chữ, gia đình hướng về Chúa, đoàn thể thanh niên cải cách nông thôn, phục vụ xã hội. Tôi đã tập trung tinh thần để nghiên cứu những phương pháp tổ chức và phổ biến đến nhiều nơi để thực hiện. Những công tác có đơm hoa thật tươi đẹp, nhưng không kết trái! Và sự thiếu sót trầm trọng nhất là quên đi lẽ đạo cứu chuộc, thế nên tôi ra công gắng sức, làm việc không công, đưa nhiều người vào nhà thờ, nhưng chưa hề dẫn dắt được ai vào nước Chúa.
CHƯƠNG 27
ĐẾN HOA BẮC (1930-1931)
Tống Thượng Tiết không lưu lại Thượng Hải, nhưng đi thẳng đến Hồ Châu, lúc ấy Hồ Châu đang tiến hành phong trào “Gia đình Cơ đốc hóa”, phía đông Trung Hoa. Những cán sự phong trào này là những nhà lãnh đạo nổi tiếng thuộc Cơ đốc giáo Hiệp Tiên Hội của Trung Hoa, hợp tác với những người được sai phái đến từ các tỉnh, có hơn 100 người, Tống Thượng Tiết là một trong những người được phái đến để cộng tác khai triển phong trào này. Vì ông ăn mặc quá đơn sơ, thường thì tiên sinh chỉ mang một chiếc áo dài vải thô, thỉnh thoảng cũng có mặc âu phục, nhưng đã quá cũ và sờn rách, trong khi những người khác thì quần dạ áo bông, nên họ nhìn ông với đôi mắt xem thường, tưởng đó là một kẻ quê mùa đến từ một chốn thâm sơn cùng cốc nào đó. Những ngày đầu của đại hội, xem như ngôn ngữ bất đồng (Đại hội của các đại biểu nói tiếng Anh) nên Tống Thượng Tiết hơi im hơi lặng tiếng, chỉ theo chương trình mà đến dự thính như một người ngoài cuộc. Ông chỉ lắng nghe các đại biểu thảo luận những dự án này, bàn cái kế hoạch nọ. Cho đến một hôm được Thánh Linh thôi thúc ông mới đứng dậy và cầu nguyện, lời cầu nguyện của ông đầy quyền năng. Sau giờ cầu nguyện, một người đàn bà ngoại quốc đã đến làm quen với ông nở một nụ cười thật cởi mở. Bà tự giới thiệu tên là Frank R.Milican giáo sĩ Quản Học Hội, thuộc giáo hội Trưởng lão Hoa Kỳ. Bà thật đã không ngờ một người có dáng vẻ quê mùa như thế này mà lại nói được tiếng Anh quá lưu loát. Những đại diện khác cũng lấy làm thích thú khi thấy một nông dân lam lũ thế kia mà cũng chuyện trò bằng tiếng Anh cách thoải mái. Họ nhìn Tống Thượng Tiết với ánh mắt khác lạ. Bà Milican giới thiệu ông với đại diện của giáo hội Trưởng Lão toàn quốc. Từ đó, những công việc và hoạt động của Tống Thượng Tiết được bà Milican tiếp tay rất nhiều. Qua cuộc đàm đạo, bà được biết ông có cấp bằng tiến sĩ khoa học, tốt nghiệp tại Hoa Kỳ nhưng được Chúa đặc biệt kêu gọi đi làm sứ giả truyền bá Phúc âm. Nên bà Melican đã mời Tống Thượng Tiết gia nhập vào nhóm của bà. Trong sinh hoạt của nhóm, bà đã mời ông chia sẻ lời Chúa và trình bày phương pháp và cho biết những kết quả trong vòng ba năm qua ông đã thực hiện tại Hưng Hóa trong chương trình Cơ đốc giáo dục gia đình. Sau này trong những sinh hoạt khác của nhóm, bà Milican cũng mời Tống Thượng Tiết đi thuyết trình tương tự mỗi nơi.
Trong một kỳ đại hội của giáo hội Trưởng lão, vị chủ tọa vì công tác bất thường nên vắng mặt, bà Milican đã giới thiệu Tống Thượng Tiết với chủ tịch của giáo hội mời ông làm diễn giả cho Đại hội. Cánh cửa truyền giáo tại Hồ Châu như đã mở rộng cho ông. Các giáo phái khác nhau, các trường học, các bệnh viện thay nhau mời ông đến truyền giảng Phúc âm, Hồ Châu là nơi đầu tiên mà Tống Thượng Tiết truyền bá Phúc âm ngoài quê của ông.
Sau khi đại hội bế mạc, Tống Thượng Tiết rời Hồ Châu đến Hàn Châu tổ chức một đêm truyền giảng trong một ngôi giáo đường nho nhỏ, rồi vội vã rời Hàn Châu, nhận lời mời của ông bà Melica, lưu lại gia đình của ông bà một thời gian ngắn. Ông bà Milican giới thiệu ông với Hội Quản Học để mời ông thuyết trình về những kinh nghiệm truyền giáo tại các làng mạc, những phương châm thờ phượng trong gia đình và những thực hiện cho chương trình xóa nạn mù chữ.
Nhưng Tống Thượng Tiết vốn là nhân sự của giáo phái Giám lý phái lên miền bắc nghiên cứu chương trình xóa nạn mù chữ nên không thể lưu lại Thượng Hải lâu ngày và phải giã từ ông bà Melican để trở lại Nam Kinh. Về đến Nam Kinh, ông đến thăm Thần học viện Kim Lăng. Thần học viện này, ngày xưa ông đã nghĩ đến, nhưng chưa có dịp vào học. Tại đây ông gặp lại Chương Văn tân, người hiệu trưởng cũ tại trường Hưng Hoá, hiện nay ông ấy là giáo sư thần học và cũng kiêm nhiệm chức vụ giáo sư đại học Kim Lăng. Ông bà hiệu trưởng ân cần mời ông lưu lại trường hai ngày để quan sát những phuơng án và phương pháp dạy của nhà trường. Sau hai ngày thăm viếng ông vượt Trường giang để đến Phồ Khẩu và đáp xe lửa về hướng bắc đến Thiên Tân.
Lúc ấy đang độ cuối đông nên gió từ miền Tây-bá-lợi-Á mang khí lạnh buốt xương tràn về. Tống Thượng Tiết vốn sinh trưởng tại miền nam, quần áo chuẩn bị cho mùa đông, nhất là mùa đông miền cực bắc lại không mang theo, thật ra thì không có để mang theo, nên ông thật khó có thể chịu đựng được cái rét buốt thấu xương này, cho nên khi đến Sương Lê, một vùng phụ cận của Thiên Tân, lưu lại trong gia đình Mục sư H.E.Duley. Tống Thượng Tiết được tiếp đãi rất nồng hậu, vì giáo sĩ Duley vốn là Mục sư của Giáo hội Giám lý và cũng là bạn đồng song với ông tại đại học Ohio Wesleyan. Hơn nữa mục sư Duley cũng đã từng nghe những vinh dự của ông đã nhận được khi còn theo học tại Hoa Kỳ, một nhân vật mà Mục sư Duley đã ngưỡng mộ từ lâu, nay tình cờ được gặp, đôi bên cũng chưa cần những lời giới thiệu mà như đã là bạn cố tri.
Mục sư Duley khuyên Tống Thượng Tiết chẳng cần phải đi quan sát, nghiên cứu phong trào chống nạn mù chữ nũa, vì đây chỉ là một phong trào có tính cách xã hội, “thuộc thể” mà không động chi đến phần tâm linh. Phong trào này chưa phải là việc cấp bách hàng đầu của giáo hội. Hiện nay giáo hội đang tô phết cho mình một bộ mặt bên ngoài thật tốt đẹp, nhưng đời sống bên trong đang khô cằn, yếu mỏn. Điều chúng ta đang cần là một cuộc phấn hưng toàn diện đầy năng quyền của Chúa Thánh Linh. Chúng ta phải mạnh dạn đứng lên, hô hào một sự thức tỉnh cho tất cả những lãnh tụ của giáo hội, để họ ra khỏi trạng thái mê ngủ để sẵn sàng chờ đợi Người của Đức Chúa Trời tái lâm.
Cái gọi là phong trào cải lương, cải tiến nông thôn, phong trào xóa nạn mù chữ, thật ra chẳng có một kết quả nào đáng khích lệ. Mục sư Duley cùng với Tống Thượng Tiết đến Sơn Hải Quan để quan sát tại chỗ, họ thấy tín đồ vùng ấy chẳng những đã rất ít mà lại đòi sống tâm linh cũng như về học vấn cũng chẳng biết gì. Ông nói với Mục sư Duley “Tôi chỉ cần xem quả để biết cây”. Sau đó ông được giới thiệu Bắc Bình cũng gọi là Bắc Kinh gặp giáo sĩ R.W.Backus, ông này đang lo huấn luyện cho trên 20 sinh viên để ra truyền giáo, nhân dịp này, mục sư Duley mời Tống Thượng Tiết chia sẻ những kinh nghiệm của ông trong ba năm hầu việc Chúa tại Phước Kiến. Lưu lại đó vài ngày, giáo sĩ Bakus giới thiệu ông đến vùng Bảo Định, đúng vào lúc thời điểm mùa rét đang lên cao điểm, tuyết phủ kín một vùng rộng lớn, Tống Thượng Tiết đến Bảo Định vào nửa đêm, ông đến gõ cửa nhà một vị giáo sĩ tây phương để xin qua đêm. Vị giáo sĩ này không thể ngờ được người đến xin ngủ đậu nhà mình là bạn học cùng trường ngày xưa. Thấy Tống Thượng Tiết trong bộ quần áo tồi tàn rách rưới thì ông cho ngủ chung giường với người la công quét dọn nhà thờ. Khốn nỗi người bạn cùng giường này lại có một đôi chân quá hôi thối, trời thì quá rét, mền thì mỏng, suốt đêm ông không sao chợp mắt được.
Sáng hôm sau vị giáo sĩ tây phương này lần mò hỏi tung tích của Tống Thượng Tiết, bây giờ ông mới biết: “Tôi là Tống Thượng Tiết”. Vị giáo sĩ này rất đỗi ngạc nhiên: “Tống tiến sĩ đây sao?” Giáo sĩ vội vã thay đi thái độ và tiếp đãi ông như một thượng khách. Ông ta mời Tống Thượng Tiết thuyết giảng cho các học sinh trong vùng này. Dự tính sẽ có chừng khoảng 5,6 trăm học sinh, không ngờ số người đến dự chỉ vào khoảng 5,6 mươi người. Tìm hiểu mới biết rằng trong cuộc nội loạn năm Canh Tuất từ là loạn “Upsring of the Boxes”, những tín hữu ở Bảo Định đã tuần đạo với con số rất lớn. Tống Thượng Tiết đã đến nghĩa trang thăm viếng những ngôi mộ của những người đã khuất.
Từ Bảo Định, Tống Thượng Tiết xuôi về Định Huyện, dọc đường bão tuyết theo gió bấc thổi về, rét buốt, mà ông lại quần áo phong phanh. Sau này kể lại là, thiếu chút nữa thì ông đã bị đông đá trong toa xe lửa. Đến được Định Huyện cũng lại nửa đêm, làm cho càng thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của cuộc hành trình. Tại Định Huyện Tống Thượng Tiết được tiếp xúc với Tiến sĩ Án Dương Sơ, một giáo sư nổi tiếng cả thế giới về bình dân giáo dục. Án Dương Sơ, quả là danh bất hư truyền, phương pháp giáo dục của tiến sĩ Án rất mới mẻ. “Nhưng điều khiến tôi kính phục Án tiến sĩ là tinh thần cần mẫn của ông”, Tống Thượng Tiết nói, “nên thành quả tốt đẹp là chuyện dĩ nhiên, trong thâm tâm, tôi vô cùng kính phục Án tiến sĩ”. Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Chúa dạy dỗ tôi: “Những bông hoa tươi thắm kia chỉ là vinh quang tạm bợ, chúng không thể có kết quả được, những bông hoa ấy nở ra, rực rỡ trong nháy mắt, rồi tàn héo ngay! Con phải cẩn thận giữ mình, và phải học bài học về cây vả sum suê lá mà không có một trái nào”. Thức dậy sau khải thị của Chúa qua giấc mơ, sáng sớm ông mới nhận được đâu là “chân” đâu là “giả”. Ông vội giã từ Án tiến sĩ để ra đi và được tiến sĩ đãi ngộ rất nồng hậu. Đáng lý ông phải lưu lại Định Huyện 1 hay 2 tháng để cùng chung lo việc Chúa với Án Dương Sơ, nhưng mới chỉ 1, 2 ngày ông đã phải vội vã giã từ để lên Bắc Kinh theo chỉ thị của Chúa.
CHƯƠNG 28
TỪ THƯỢNG HẢI ĐẾN NAM XƯƠNG
Mùa xuân năm 1931 Tống Thượng Tiết đến Bắc Kinh thì được một giáo sĩ của giáo hội Trưởng lão mời hợp tác trong thời gian 6 tháng để chuyên phụ trách về huấn luyện những truyền đạo, nhưng Chúa đã ngăn cản và trực tiếp phán với ông: “Việc này không phải là trách nhiệm của con, con phải nhân Danh Ta để làm những việc vĩ đại hơn, con hãy chổi dậy, mang lửa phấn hưng đến cho những Hội Thánh không nóng cũng không lạnh trên toàn đất nước Trung Hoa, kẻo e khi Chúa Cứu Thế Giê-xu tái lâm họ phải bị bỏ lại chăng, con phải mau mau đi rao truyền tin tức Chúa sẽ nhanh chóng trở lại, báo cho họ biết là phải tỉnh thức và sẵn sàng như cô dâu chuẩn bị đón tiếp tân lang.”
Tống Thượng Tiết đã vâng theo Lời Chúa và tế nhị khéo léo nhưng dứt khoát từ chối đề nghị của vị Hội trưởng giáo hội Trưởng lão. Sau đó thì nhận được thư của bà giáo sĩ Milican mời xuống chủ tọa một hội đồng phấn hưng tại trường nam nữ trung học Thanh Tâm tại cửa Nam tỉnh Thượng Hải. Cầu hỏi ý Chúa và thấy rằng đúng là Chúa muốn ông xuống đó để hầu việc Ngài, ông liền đáp xe lửa đến Thượng Hải. Cùng lúc đó, có nhà tôn giáo học người Nhật, tiến sĩ Hạ Xuyên Phong Tú cũng đang diễn thuyết tại đại học Phụ Giá. Những giáo phẩm đến tham dự trên 5,6 chục người. Tống Thượng Tiết cũng đến tham dự. Có thể những lãnh tụ tôn giáo này cũng đã từng nghe tiếng ông nay được gặp ai nấy cũng đều nhận rõ tinh thần hy sinh cũng như nền tảng tri thức của ông thật uyên bác. Họ cũng phong cho ông tước hiệu “Hạ Xuyên Phong Tú” của Trung Hoa. Họ mời ông giảng cho một buổi thờ phượng cầu nguyện. Đề tài chia sẻ của ông hôm ấy là “Năng quyền của huyết Chúa Giê-xu, hiệu lực của thập tự giá và sự cần thiết đầy dẫy Đức Thánh Linh trong sự tái sanh”. Sau khi chia sẻ lời Chúa xong, Tống Thượng Tiết biết ngay những người Tân phái sẽ không chấp nhận lời giảng của ông. Chính ông cũng nhận biết mình còn là con người của thời còn lưu học trên đất Mỹ (hồi bấy giờ ông cũng thuộc những người Tân phái, giảng Phúc âm thì lấp lửng nửa vời), nên đã xin rút lui khỏi hội và không hướng dẫn những buổi cầu nguyện thờ phượng kế tiêp nữa. Ông không đồng ý với Tin Lành Xã Hội của ông Hạ Xuyên Phong Tú. Và cũng bất mãn với chính mình về bài giảng về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Về sau người ta đọc được trong nhật ký của ông “… Không những người nghe không một chút xúc động, mà chính người giảng cũng không biết mình nói gì, tuy rằng lúc ấy tôi đã hiểu thế nào là Tin Lành xã hội, chỉ là một mớ lý thuyết trống rỗng, không có sức sống, nửa nạt nửa mỡ! Chính tôi đã từng là một nhà Tin Lành xã hội, tôi không thấu triết những lẽ đạo căn bản, lẽ đạo cứu chuộc con người. Trong buổi chủ toạ tại Thánh Tâm học đường, tôi đã giảng giải Thánh Kinh cho học sinh trung học nam nữ và tôi cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chính mình khi được Chúa cứu và thăm viếng. Nhiều người được sự cảm động”.
Sau đó Mục sư Than Nhân Khang của Thanh Tâm Đường giới thiệu Tống Thượng Tiết đến giảng cho một Hội Thánh thuộc giáo phái C&MA ở Thủ Châu Đường. Nhưng không thấy thỏa lòng vì nhận thấy lời giảng dạy của mình đã lọt vào tai này và ra khỏi tai kia của những người đang ngồi nghe!
Trong lúc đang hầu việc Chúa tại Thượng Hải, có một người bạn tây phương đã thành khẩn khuyến cáo “Giáo hội Bêtên ở phía tây Thượng Hải là một nơi chủ trương đề cao cảm xúc và tình cảm, ông không nên đặt chân đến đó nữa”. Ông trả lời rằng: “Tôi có gia nhập vào giáo hội đó hay không là một chuyện, nhưng đến đó để thăm họ một lần là một chuyện khác”. Một ngày kia Tống Thượng Tiết đã đến thăm Hội Thánh Bêtên phía tay Thượng Hải. Mục sư cũng như những các chức viên đã mời ông giảng luận cho Hội Thánh. Ông đã dùng đề tài: “Năm cái bánh và hai con cá”. Số người dự thính hôm đó có tới 7,8 trăm người. Ai nấy đều thấy vui thỏa về món ăn tâm linh mà Tống Thượng Tiết đã ban cho họ, nên sau đó họ đồng tâm mời ông hướng dẫn họ học Kinh Thánh, ông đã dùng sách Mác để dạy họ, số học viên ngày càng thêm đông. Ông tự nhủ rằng: “Những sự huyền nhiệm là những điều đáng tôn trọng, nhưng chắc một điều là phải có năng quyền thì mới đạt được sự cứu chuộc. Tôi tự xét lòng mình thì thấy thật bình an, và không một chút hổ thẹn”. Ông đã khước từ lời mời gia nhập giáo hội này, tiên sinh chỉ hứa với họ sang năm 1931 sẽ đến chủ trì trại hè của Hội Thánh. Tuy không gia nhập giáo hội Bêtên, nhưng ông vẫn thường xuyên cầu nguyện cho họ, xin Chúa nếu được cho phép ông cộng tác với họ trong công tác truyền bá Tin Lành ở miền Bắc.
Lên miền Bắc lần này trên danh nghĩa của giáo hội Giám lý để nghiên cứu quan sát tình hình của phong trào bài trừ nạn mù chữ, nên lúc về cũng phải báo cáo những công việc này, nên ông đã tính toán là sẽ trở về Hưng Hóa. Trước khi lên đường trở về, Tống Thượng Tiết đã cố gắng ôn lại tất cả những công việc đã làm và đã viết ra những lời tự phê bình như sau: “Hồ đồ, hồ đồ, những công việc của tôi không một hướng định, chìm nổi, trôi giạt theo những phong trào. Một mặt, tôi thường giảng luận về những huyền nhiệm, nhưng không thể tìm ra được cho mình một lối thoát. Chúa đã nói Ngài đến là để tìm và cứu người đang chết mất. Nhưng đáng thương thay! Biết bao nhiêu người đang lao mình vào những công việc, đang thành lập và thực hiện những phong trào, áp dụng những phương pháp, hoàn tất những kế hoạch, hết thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Nhưng những công việc ấy không đi được vào lòng người, không khiến cho một ai cảm động về tình yêu của Chúa và dĩ nhiên không cứu được một linh hồn nào trở về với Ngài. Há không ai hiểu rằng Chúa Giê-xu đến trần gian với mục đích là cứu rỗi kẻ có tội? ‘Tìm và cứu những linh hồn đang hư vong’ mới là điều quan trọng, và cấp bách cần thực hiện ngay bây giờ. Tái tạo, đổi mới một đời sống tâm linh để có một nền tảng căn bản há không quan trọng hơn là cải thiện mức sống con người trong xã hội sao?” Trong khi Tống Thượng Tiết đang thất vọng vì thất bại của những năm qua, thì Chúa đã đột ngột mở cho ông một con đường khác. Ngài hướng dẫn ông đến Nam Xương, chỉ cho ông phương cách để cứu rỗi con người. Hành trình thuộc linh của ông được hoàn toàn đổi mới.
Mục sư William E.Schubert của giáo hội Giám lý tại Nam Xương gửi cho ông một bức thư mời ông đến gấp Nam Xương để chủ tọa một buổi thờ phượng bồi linh. Lời thư thật là khẩn thiết, nói đến lòng trông mong khao khát của hội chúng, khiến cho ông thật cảm động. Nhưng những người lãnh đạo của Hội Thánh Bêtên biết rằng cuộc hành trình của ông nếu thực hiện sẽ phải trải qua nhiều chặng đường rất hiểm nguy vì nạn thổ phỉ đang nổi dậy cướp của giết người ở khắp nơi, nên họ cũng vì lòng yêu thương, quí mến ông mà khuyên giải không nên đi đến Nam Xương. Thật lòng của ông cũng đang hướng về cố hương, mong một chuyến về thăm quê nhà, sau đó sẽ trở lại với công việc Chúa tại miền Bắc nên cũng không hăng hái đi đến Nam Xương cho lắm. Trong lúc đang chờ đợi tàu để xuôi về nam, thì tiếng của Chúa đã đến để nhắc nhở ông: “Con hãy đến Nam Xương, giờ đã điểm con sẽ đánh thắng một trận tốt lành và to lớn cho Ta”. Nghe được tiếng phán rõ ràng của Chúa, cho dù trong lòng đang hướng về quê hương, mong ước được về thăm nhà một chuyến ông liền vâng lời Chúa, cho dù đường xá có xa xôi hiểm trở, cho dù thổ phỉ có đang rình rập dọc đường, ông cũng chẳng quan tâm. Sáng hôm sau ông xuống tàu, ngược dòng sông Dương Tử đi đến Nam Xương. Tới nơi vào trung tuần tháng hai, năm 1931.
Sáng hôm sau, ông liền bắt tay vào việc giảng dạy cho những học sinh, sinh viên. Ông đã làm chứng về chính cuộc đời của mình, những ân điển lớn lao, cùng với sự thăm viếng đặc biệt của Chúa qua đời sống của ông. Những thính giả trẻ tuổi của Tống Thượng Tiết lấy làm thích thú về chân lý của Thánh Kinh qua sự trình bày sống động của ông. Buổi chiều Hội Thánh tổ chức một buổi giảng phấn hưng. Thật ra thì các tín hữu tại đây rất xa lạ với sự phấn hưng, họ không hiểu và cũng không hình dung được phấn hưng là gì, nhưng họ cũng đã nhẫn nại chờ đợi. Lâu sau mới có khoảng 8,9 chục người lần lượt đến, rồi từ từ đến khá hơn, nhưng tổng số cũng chỉ quá 100 mà thôi. Tống Thượng Tiết chỉ hướng dẫn và dạy họ học Kinh Thánh. Kinh Thánh họ có là Phúc âm Mác mà thôi. Những đêm sau số thính giả tăng lên 300 đến 400 người, mặc dầu trời mưa giá lạnh, họ cũng chịu khó che dù đến dự. Làm việc như vậy, khoảng một tuần, ông hỏi Chúa rằng: “Chúa ôi, hiệu quả Chúa hứa đâu mà con chẳng thấy?” Qua tuần thứ nhì các tín hữu tuyên truyền và khuyến khích các học sinh trường nữ trung học Bão Linh đến tham dự lớp học Kinh Thánh, ban đầu cũng không mấy ai hưởng ứng.
Trong lúc Tống Thượng Tiết thất vọng về công việc tại đây và cầu hỏi Ý Chúa: “Chúa ôi, Chúa gọi con đến đây, chẳng lẽ chỉ để nói cho những con người tại đây qua thính giác của họ? Tại sao Chúa không dùng con để khiến cho những người khác được sự cứu rỗi?”
Các nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Nam Xương có ý mời ông lưu lại đây khoảng một tháng nên họ đã triệu tập tất cả những truyền đạo nam nữ của ba giáo khu trong vùng để mở một đại hội truyền giáo và mới ông đến để giảng phần hưng. Nhưng ý Tống Thượng Tiết lại muốn trở về Phúc Kiến để báo cáo công việc đã làm, nên đã làm cho họ biết rằng: “Giấy phép của tôi đã hết, lý ra tôi đã phải trở về Hưng Hóa nếu quý ông muốn lưu tôi lại đây để hầu việc Chúa thì phải điện về để xin được triển hạn thêm một tháng nữa. Họ liền thực hiện như điều Tống Thượng Tiết yêu cầu và đã được phép.
Nhưng vì ngày đại hội các truyền đạo chưa đến nên ông đi ra vùng phụ cận là Cửu Giang để truyền bá Phúc âm cho đồng bào. Các tín hữu tại Cửu Giang ham nhóm lại thờ phượng nên mới buổi đầu mà số người đến dự đã lên quá 400 người. Lớp học Thánh Kinh cũng được mọi người hoan nghênh và tham dự thật đông và vui. Những lời giảng dạy và làm chứng của ông đã đụng đến tấm lòng của rất nhiều thanh niên, khiến các học sinh nam nữ tại đây, thật quả giống như những “con nai cái thèm khát khe nước”, họ khao khát chân lý và Lời Chúa. Trong khu vực này có trường Đồng Văn, trường là của giáo hội Giám lý có trên 200 học sinh, hầu hết đã tin nhận Chúa trong kỳ đại hội này, sau đó họ tổ chức những đoàn truyền giảng sau giờ học. Họ ra đi với tinh thần phấn chấn vui tươi truyền bá Phúc Âm. Theo dư luận của những tín hữu tại vùng Cửu Giang thì đây thật là một hội đồng phấn hưng chưa từng có.
Khi trở lại Nam Xương, Tống Thượng Tiết cũng không biết là kỳ đại hội các truyền đạo còn đến một tuần nữa mới nhóm lại. Những nhà lãnh đạo nơi đây mời Ông mở một đại hội phấn hưng cho những người trẻ tại đây. Ông yêu cầu họ phải hiệp chung khẩn thiết, đồng tâm cầu nguyện để làm hậu thuẩn cho lòng mong ước phấn hưng. Ông nói: “Nếu các vị giáo sĩ Tây phương của quí vị, cùng những giáo chức trong các trường học không đồng tâm hiệp ý với tôi đi vòng quanh thành phố này, thì nó cũng giống như thành phố Giêricô ngày xưa sẽ không bao giờ sụp đổ xuống. Thật ra thì các vị giáo sĩ Tây phương, cũng như các giáo chức trong trường đã thành lập những nhóm cầu nguyện từ lâu nên Tống Thượng Tiết được sự hậu thuẩn kiên cố này, lòng dũng cảm của ông tăng lên gấp bội phần hơn, ông can đảm tấn công thẳng vào phòng tuyến, đưa cao ngọn cờ Thập tự. Thành trì ma quỷ bị sụp đổ. Chúa đã làm việc lớn lao cả thể trên các Mục sư, Truyền đạo, các bạn trẻ và dân chúng được cứu rất nhiều. Cơn phấn hưng bùng cháy và lan rộng ra khắp vùng xung quanh.
Cơn đại phấn hưng tại Nam Xương đã được chuẩn bị bằng sự cầu nguyện thiết tha từ lâu. Những giáo sĩ Tây phương cũng như những người đồng công Trung Hoa đã cùng nhau dành một táhng của năm 1930 để cầu nguyện cho công cuộc phấn hưng Hội Thánh cứ tiếp tục cầu nguyện không ngừng trong vòng 50 ngày vào đầu năm 1931 thì Tống Thượng Tiết đã được Chúa sai tới Nam Xương.
CHƯƠNG 29
MỘT ĐÊM KHÓ QUÊN TẠI NAM XƯƠNG
NGÀY 5 THÁNG 3 NĂM 1931
Giô-suê đã tiến quân và toàn thắng nơi chiến trận là hoàn toàn nhờ vào sự cầu nguyện, và cây gậy của Môise luôn được đưa cao trên núi. Những hội đồng phấn hưng cũng tương tự như trận chiến ngày xưa, không phải chỉ là tài năng của sứ giả phấn hưng, nhưng là nhờ dân sự Chúa đưa tay lên khẩn thiết cầu nguyện. Tống Thượng Tiết cũng thường nói là người sứ giả phấn hưng chẳng có gì để đáng khoe, tất cả những sự kiện xảy ra trong những cuộc phấn hưng mà chúng ta có thể thấy được là hoàn toàn nhờ vào những đoàn cầu nguyện và cầu thay. Khi biết được Hội Thánh tại Nam Xương có những đoàn đã đồng tâm cầu nguyện, Tống Thượng Tiết tin chắc rằng sẽ có một cơn đại phấn hưng không thể ngờ được sẽ xảy ra tại đây.
Tống Thượng Tiết đã cảm kích nhất là tấm lòng của giáo sĩ Schubert, vị giáo sĩ này thường rất ít ngủ, dành nhiều thì giờ ban đêm để quì gối cầu nguyện thiết tha với Chúa, ông cầu nguyện với những dòng nước mắt khẩn đảo. Có một đêm, trời đã về khuya, Tống Thượng Tiết đã lên giường, bỗng nghe văng vẳng từ trên lầu vọng xuống những tiếng khóc hòa trong lời cầu nguyện thiết tha, đó là những lời cầu thay của giáo sĩ Schubert. Giáo sĩ thường cầu xin với Chúa: “Chúa ôi, ngày nay Chúa không ban cho một cơn phấn hưng tại Nam Xương thì còn đến bao giờ nữa? Chúa ôi! Nếu lần này Ngài không phấn hưng Hội Thánh của Chúa tại Nam Xương thì Ngài đã làm ngược lại niềm tin ban đầu của con, khi con dâng mình vượt trùng dương đến đất nước Trung Hoa này. Nếu vậy, xin Chúa cho phép con trở về nước”. Những lời cầu nguyện của Giáo sĩ Schubert đã cảm động sâu xa tấm lòng Tống Thượng Tiết. Ông liền được thúc giục chờ dậy, mặc áo dài vào và cũng quì gối cầu nguyện: “Lạy Cha, còn con, con đến đây không phải được Cha dùng để đem lại sự phấn hưng cho giáo hội tại Nam Xương sao? Xin Cha, chính Cha làm những việc diệu kỳ, xin cha dùng con và chúng con là những người đang ngưỡng trông lên Cha. Giáo sĩ Schubert và Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện như thế suốt đêm.
Sau khi thẩn khiết cầu hỏi Chúa, Ngài đã ban cho một khải thị, Chúa dạy Tống Thượng Tiết phải đả kích tội lỗi, vì tội lỗi là màng chắng đã che khuất lòng người, chiếc màn đen ấy phải được vén lên thì ánh sáng thật của Phúc âm mới có thể chiếu dọi qua được để mang lại sự sống đời đời. Đêm hôm đó đối với Tống Thượng Tiết là kỷ niệm sâu đậm. Sự mặc khải về phương hướng mới đó là một chuyển hướng cho việc làm của ông. Cũng bắt đầu từ cái đêm không thể quên ấy (5 tháng 3, 1931) ông không còn đặt nặng vấn đề huyền bí cho mình nữa, mà những gì của ông có phải là quyền năng đối phó với tội lỗi. Đêm hôm ấy Chúa đã ban cho Tống Thượng Tiết một số sứ điệp để công kích, đả phá tội lỗi như: Đoàn quỷ của Giêsasê, người con trai hoang đàng, những kẻ giả hình… Tất cả những sứ điệp này ông đã dùng nhiều lần ở nhiều nơi, và quyền năng của những sứ điệp này không bao giờ bị giảm sút.
Ngày của đại hội dành cho Mục sư, truyền đạo đã đến. Tống Thượng Tiết được mời chủ tọa và ban phát sứ điệp của Chúa suốt tuần lễ đầu cho đại hội phấn hưng thanh niên. Trong những bài giảng luận, không bao giờ ông quên nhắc đến tội lỗi: Và ông cũng đã mời những người muốn ăn năn tội lỗi đến trước tòa giảng để cầu nguyện. Ông hướng dẫn họ mở miệng cầu nguyện với Chúa, lúc đầu vì còn e ngại, không ai dám mở miệng, nhưng sau đó thì được Chúa Thánh Linh soi sáng dần dần có những tiếng khóc, và những lời cầu xin trong nghẹn ngào và nước mắt. Thậm chí có những hiệu trưởng đã nhận tội lỗi với học sinh, các vị giáo sư ăn năn tội, và xin lỗi nhau, các học sinh ôm nhau mà khóc lóc vì những lỗi lầm đã đối xử tệ với nhau. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Khi con người nhận biết tội lỗi của mình thì họ cần đến Cứu Chúa. Rồi sau đó, nếu chúng ta trình bày Đức Chúa Trời đã thương yêu tội nhân đến mức độ nào và đang chờ đợi sự ăn năn hối cải của tội nhân, và khi một tội nhân đã ý thức được như thế thì không ai có thể cấm được những dòng nước mắt trước tình yêu thương diệu kỳ của Thiên Chúa”. Trong đại hội phấn hưng đó, chẳng những Chúa Thánh Linh đã soi sáng và cáo trách tội lỗi của con người và hối thúc họ tìm đến sự cứu rỗi mà cũng còn dạy con người nhìn biết Chúa Cứu Thế là Đấng hướng dẫn con người đi đến chân lý. Trước đó Tống Thượng Tiết chỉ biết công việc của Đức Thánh Linh là âm thầm tác động và đổi thay lòng người, chứ không ngờ là công khai bắt phục lòng người. Tại Nam Xương, ông đã chứng kiến Đức Thánh Linh công khai bắt phục hơn 180 người.
Qua tuần lễ thứ nhì là hội đồng của các Mục sư, Truyền đạo, tất cả những người tham dự đều là lãnh tụ của Hội Thánh. Mỗi người đều là mục tiêu của Tống Thượng Tiết nhắm vào. Ông quyết định dùng chiến thuật “đánh từng bước”, bước thứ nhất là cáo trách tội lỗi, vì nếu một người truyền đạo của Chúa mà chưa thang toán xong với chính mình cái nợ tội lỗi, chưa dốc đổ bằng hết ra những dơ bẩn của chiếc bình đựng thì làm sao có năng lực để công phá thành lũy kiên cố của tấm lòng người khác. Bước thứ hai thì ông đặc biệt chú trọng đến công việc của Đức Thánh Linh. Đừng, đừng bao giờ dập tắt những xúc cảm về Thánh Linh để có thể khiến cho Ngài phải buồn lòng, vì Ngài luôn luôn sẵn sàng, đồng công với những người thuận phục. “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta”. Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
Đã định xong chiến lược, tiếp theo là bố trí trận địa, ông mời tất cả các vị lãnh tụ giáo hội ngồi vào hàng giữa của nơi nhóm họp, ngồi bao quanh họ là những học sinh mà tuần qua đã được Chúa thăm viếng, bắt phục, họ đã thật sự ăn năn hối cải và đã nhận được một đời sống đổi mới. Những đứa con sơ sinh này trong Chúa cũng rất quan tâm đến những bậc lãnh tụ tâm linh của mình. Họ hát ngợi khen Chúa thật hồn nhiên. Hôm đó sứ điệp của Tống Thượng Tiết nhấn mạnh những tội ô ở trong thâm tâm phải được gội rửa thật sạch mới có thể được tràn đầy sức sống của Chúa Cứu Thế. Những sự thăm viếng diệu kỳ của Chúa trong kỳ đại hội này thật không xiết kể. Sau mỗi buổi thờ phượng và nghe sứ điệp phấn hưng, những con cái của các vị Mục sư truyền đạo đồng loạt quỳ xuống tại những ghế ngồi của họ và lớn tiếng cầu nguyện: “Cầu xin Chúa tẩy rửa sạch tội lỗi bố mẹ chúng con, để cho bố mẹ chúng con là những người hầu việc Chúa không tỳ vết, thánh sạch, được đứng tự nhiên trước mặt Chúa và xứng đáng đảm trách chức vụ thiêng liên là hướng dẫn Hội Thánh thờ phượng Thiên Chúa”. Trong hàng ngũ những vị Mục sư, truyền đạo ngoại trừ những vị được sâu nhiệm trong ân sủng của Chúa thì khiêm cung tiếp nhận những lời cầu nguyện của con cái mình, còn hầu hết đều đã để lộ tự ái và sự nóng giận. Họ rất căm giận ông và cho rằng: “Tống Thượng Tiết là người khởi xướng cách mạng gia đình, xúi giục con cái của họ tỏ thái độ bất hiếu, và đến đây cố tình đả đảo và bêu xấu cha mẹ chúng”. Tuy rằng những lời chỉ trích này hoàn toàn không đúng sự thật, nhưng ông cũng nhận khuyết điểm là việc cáo trách tội lỗi cách tiêu cực như thế này không hợp với các lãnh tụ giáo hội lúc bấy giờ.
Trước khi rời Nam Xương, Tống Thượng Tiết hướng dẫn những người đã được Chúa thăm viếng đến làng Giá để truyền bá Phúc Âm, đoàn viên lên đến hơn 200, gồm đủ mọi thành phần: hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, cũng như giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo. Rời làng Giá, họ trở về Nam Xương, trên đường về đoàn gặp phải một trận mưa như trút nước và gió rất lớn, đến nỗi làm gãy mất 13 câu dù của họ. Đoàn người tuy gặp trận mưa to gió lớn như vậy, ai nấy đều ướt như chuột lột, nhưng chẳng có một lời than vãn nào, mà ngược lại, hình như trận mưa lớn đó đã gội rửa tất cả tội lỗi của họ một cách cụ thể, nên có những người cất tiếng khóc nhưng hoan hỷ trong ăn năn, có người cất tiếng nguyện cầu trong ngợi khen, có người cất tiếng hát vang, tất cả những âm vang đó như một tấu khúc hoan ca vang cao đến tận các từng mây. Có những thanh niên vô đạo, quá khích lúc nào cũng la lớn tiếng những khẩu hiệu đả kích Cơ đốc giáo nhưng nay họ thấy như ngày phán xét đã hầu gần nên ăn năn tội lỗi, xin Chúa thứ tha những lời phạm thượng vô tín của họ. Những giáo sĩ tây phương thấy cảnh tượng lạ lùng ấy, tưởng rằng đoàn người này lên phát điên nên họ rất sợ hãi và trốn biệt không còn một ai trong đoàn người truyền giáo trở về ấy. Riêng Tống Thượng Tiết nghe rõ tiếng Chúa nói vào tai như tiếng gió Thánh Linh. Hiện tượng này cũng là một điều rất kỳ dị cho chính ông.
Trận mưa lớn của Đức Thánh Linh như gội rửa sạch mọi xấu xa ô uế. Những tấm lòng như những thửa ruộng khô cằn lâu ngày, nay được một cơn mưa thấm nhuần, những linh hồn thống hối đau thương đã được an ủi, sau cùng là những lời ngợi khen Chúa thay cho những lời khẩn cầu thống hối. Niềm vui mừng hòa trong lời ca tụng vang dội trong hội trường tại Nam Xương trong những ngày sau đó. Năng lực thật diệu kỳ, và Tống Thượng Tiết đã ghi lại trong hồi ký như sau: “Thắng lợi tại Nam Xương đã dạy cho tôi một bài học về bí quyết của sự phấn hưng: phải triệt để xưng hết tội lỗi của mình, thứ đến là xin cho được xức dầu bằng Đức Thánh Linh, cuối cùng là phải làm chứng về Chúa và cho Chúa. Ngày trước khi tôi đọc cuộc đời của John Wesley, mỗi lần ông truyền giảng thì đưa được rất nhiều người về với Chúa, tôi vô cùng ngưỡng mộ vị tôi tớ này của Chúa, bây giờ tôi đã tìm hiểu được bí quyết để đạt được kết quả đó rồi!”
CHƯƠNG 30
TỪ NAM TẦN ĐẾN THƯỢNG HẢI VÀ NINH BA (1931)
Ngọn lửa phấn hưng tại Nam Xương đã lan dần đến Cửu Giang. Công việc truyền giảng của Tống Thượng Tiết tại Cửu Giang cũng được đầy dẫy năng quyền của Chúa Thánh Linh khiến cho các Hội Thánh tại Cửu Giang cũng được Chúa thăm viếng và tẩy sạch tội lỗi như tại Nam Xương. Những “con đỏ” trong Hội Thánh tại Nam Tầm mới được tái sanh, đã viết những bài chứng thực quyền Chúa trên đời sống của họ, được đăng tải trên các tạp chí Cơ đốc giáo, khiến cho tiếng đồn về ân tứ của những sứ điệp phấn hưng của Tống Thượng Tiết vang xa khắp nơi. Hội Thánh nào cũng đạt thư hay điện tín đến mời ông đến giảng phấn hưng cho họ.
Nơi Tống Thượng Tiết nhận lời mời đầu tiên là Hô Hồ, vị giáo sĩ tây phương đang truyền giáo nơi đó không tin là Chúa Cứu Thế Giê-xu đã được sanh ra bởi một người nữ còn đồng trinh. Lực cản trở của tín lý sai lầm đó, cũng như không có người cầu thay đã làm công việc Chúa nơi đây rất trì trệ, thành quả của Đại hội phấn hưng cũng rất khiêm nhường. Sau 8 ngày đại hội, chỉ có 51 người viết bài thực chứng quyền năng của Chúa.
Về đến Thượng Hải, Tống Thượng Tiết chủ tọa cho một trại dưỡng linh của toàn thể tín hữu ở tại đó. Chủ đề sứ điệp của Tống Thượng Tiết tại giáo đường Hội Thánh Bêtên là: ‘Sự huyền nhiệm của sách Sáng Thế và sách Khải Thị’. Tiếp theo ông giảng cho một hội đồng bồi linh tại một Hội Thánh khác kéo dài trong 8 ngày. Vì mỗi ngày chỉ có dịp giảng một buổi nên ông không dám bỏ qua cơ hội, và đã khẩn thiết cầu nguyện xin Chúa cho những sứ điệp đặc biệt mạnh mẽ để tấn công tội lỗi, xin lời Chúa đâm thấu vào lòng tất cả những người đến tham dự đại hội, cho ai nấy đều thống hối về tội lỗi của mình. Sau khi ban phát những sứ điệp đó, ông đã kêu gọi những người muốn ăn năn tội lỗi của mình đến trước tòa giảng quỳ gối cầu nguyện xưng tội với Chúa. Mỗi buổi giảng bồi linh, số người đến tham dự hơn cả ngàn, khiến cho ngôi giáo đường rộng lớn không còn một chỗ trống và sau mỗi bài gảing, đáp ứng lời kêu gọi, người lên trước tòa giảng để cầu nguyện ăn năn xưng tội có hàng 300 đến 400 người. Tiếng khóc lóc thống hối ăn năn làm cho rúng động cả ngôi giáo đường. Quả là một bầu không khí của một cộng đồng được Chúa thăm viếng và phấn hưng. Tống Thượng Tiết được thúc giục kêu gọi những thân hữu đưa tay lên để được cầu nguyện tin nhận Chúa, lập tức hàng loạt những bàn tay giơ cao xin cầu nguyện và xưng tội. Tống Thượng Tiết nhận thức rằng, sự cầu nguyện an ủi cho những linh hồn đang đau thương vì tội lỗi của họ là điều không thể thiếu được của một sứ giả phấn hưng.
Tiếp đến là hội truyền giáo của Năm giáo khu Giám lý tại Nam Kinh tổ chức đại hội phấn hưng và mời Tống Thượng Tiết đến giảng Lời Chúa cho đại hội. Sau khi cầu hỏi ý Chúa và được Ngài cho phép ông đáp xe đến Nam Kinh. Đại hội được tổ chức tại một ngôi giáo đường trong khu mua bán quần áo thuộc trung tâm thành phố. Lúc đầu ban tổ chức đại hội chỉ dành cho sự giảng Lời Chúa trong vòng một tiếng đồng hồ, nhưng về sau vì nhu cầu của sự khát khao của thính giả nên giờ giảng dạy tăng lên hai tiếng đồng hồ và mỗi ngày hai buổi. Nhưng rất tiếc là vì Tống Thượng Tiết bị lên cơn đau tim nên những buổi giảng bồi linh phải thu nhỏ lại và dời đến một địa điểm khác với ngôi giáo đường nhỏ hơn. Những người được đượm nhuần ân phước trong kỳ đại hội này là các sinh viên thần học và những truyền đạo. Sau kỳ đại hội này, Tống Thượng Tiết phải về lại Thượng Hải để nghỉ ngơi.
Lúc đang còn hầu việc Chúa tại Nam Kinh. Tống Thượng Tiết đã được thư của một nữ giáo sĩ thuộc giáo phái Giám lý tại Thường Châu, cô Ella Leverech, mời ông đến giảng Lời Chúa. Lúc mới xem được thư ông đã vội nhận lời, nhưng được bạn bè khuyên ông nên về Hưng Hóa ngơi nghỉ một thời gian là hơn. Cũng lúc ấy, ông nhận được điện tín từ quê nhà mời ông về dạy một khóa huấn luyện. Ông liền hồi âm cho nữ giáo sĩ Leverech nói rõ lý do bệnh hoạn nên không thể đến Thường Châu được. Bệnh tim của ông càng ngày càng trầm trọng khi về đến Thượng Hải. Bác sĩ cho ông hay ít nhất ông phải nghỉ ngơi trong vòng nửa năm. Nhưng trong một đêm kia, Tống Thượng Tiết được Chúa cho biết là ông phải đến Thường Châu để giảng dạy Lời Chúa tại đó. Ngày mà Chúa sai ông ra đi đến ‘đồng lúa’ cận kề, thì đồng thời Chúa cũng chỉ rõ rằng chính kiêu ngạo là cội rễ của căn bệnh đau tim của ông. Bấy giờ, Tống Thượng Tiết xét nghiệm lại tận đáy lòng mình, nhận ra rằng sở dĩ mình đã không nhận lời mời đến Thường Châu vì nơi đây chỉ là một thị trấn nhỏ bé!
(Còn tiếp)