Nhưng thật lạ lùng, trong buổi thờ phượng đầu tiên ấy, khi nghe mọi người ca ngợi Chúa, lời ca như mô tả tâm trạng, tấm lòng tôi và tôi mở miệng hòa lòng theo lời ca ấy.
Tôi thức giấc vì tiếng ú ớ ở trong mơ của bé Thiên Ân. Con bé mỉm cười, vòng tay ôm mẹ rồi chìm dần trong giấc ngủ yên bình. Có lẽ, nó đang mơ một giấc mơ đẹp đẽ… Tôi thì thầm vào tai con: Hãy tiếp tục mơ những giấc mơ ngọt ngào đi con! Chúng ta đang có Cha Thiên Thượng bên cạnh, Ngài sẽ làm thành giấc mơ của con như Ngài đã từng làm thành những ao ước trong cuộc đời mẹ.
Vâng cuộc sống của mẹ con tôi ngày hôm nay chính là giấc mơ của ngày hôm qua đã thành hiện thực. Có một điều gì đó không thể lý giải được… Nhưng bởi đức tin và cầu nguyện, Ngài đã giải cứu tôi ra khỏi điều sợ hãi đó.
Nguyên nhân của điều ô nhục không lý giải nổi nầy chẳng biết đến từ đâu? Có lẽ từ những lần mê muội cầu hồn, cúng kiến hay từ những cái gọi là “duyên số với người cõi âm”. Cứ hễ trời sụp tối là có một bóng ma đến vây hãm tôi và ân ái với tôi. Suốt những năm tháng dài như thế, tôi hãi hùng và mệt mõi, người tôi rũ ra không còn sức sống. Tôi muốn được giải thoát nhưng không làm thế nào được, mỗi ngày trôi qua, tôi kinh tởm lẫn thương hại chính mình. Bao nhiêu thầy bùa, thầy bói tôi đều tìm đến để cúng bái, lễ lộc, cầu xin… Với lòng mong mỏi được cứu ra khỏi sự hãm áp này.
Tôi là người theo đạo Công Giáo, mỗi Chúa nhật đều đến nhà thờ để xin Cha giải tội, xin Đức mẹ giải thoát. Nhưng rồi mọi sự chẳng những không thay đổi mà mỗi ngày còn trầm trọng hơn.
Tôi vào Mỹ Đức, Tánh Linh, Bình Thuận để thăm một người chị. Nói theo ngôn ngữ dân gian: “Số phận an bài”, và tôi kết hôn với anh vào năm 1997. Những năm tháng hạnh phúc ngắn dần theo thời gian.
Tôi có thai đứa con đầu lòng, bóng ma mỗi đêm hiện lên và hăm dọa nếu có thai nó sẽ bóp chết đứa bé… Trong giấc ngủ tôi thường xuyên thấy những bóng đen quái dị đến khủng bố và muốn moi lấy đứa bé. Chỉ một thời gian ngắn sau đó tôi bị hư thai. Tôi luôn bị giằng xé giữa thế giới loài người và thế giới ma quỷ, thực thực, hư hư… Tôi quờ quạng trong bóng tối tâm linh mịt mù, như ngục tù trói buộc đời tôi. Sau một thời gian, tôi lại có con và sanh đứa thứ nhì, cuộc sống vẫn là những trận chiến kinh hoàng. Đã vậy, đời sống vật chất ngày càng chật vật hơn. Tôi phải vật lộn với nhiều nghề để kiếm sống nuôi con. Dẫu nỗ lực hết mình cũng không thể nào làm cho cuộc sống vơi đi nhọc nhằn, thiếu thốn.
Gia đình tôi quyết định về quê chồng là An Khê. Vì cuộc sống khó khăn, chồng tôi lao vào rượu chè và tôi là người phải hứng chịu hậu quả những cơn say của anh. Những trận đòn vô cớ cứ tới tấp trên mẹ con tôi. Đến nỗi mỗi tháng ba bốn lần, công an đến bắt anh lên đồn làm kiểm điểm hứa hẹn không đánh vợ nữa. Nhưng rồi đâu lại vào đấy.
Không chịu nổi cảnh đời bi thảm này, ma quỷ gieo vào tâm trí tôi ý nghĩ giết người chồng đã hành hạ tôi và tự kết liễu cuộc đời mình để chấm dứt những nỗi kinh hoàng….
Vật chất thiếu thốn, khủng hoảng tâm linh, suy sụp tinh thần… khiến tôi ngã bệnh. Hễ thấy ánh sáng là đầu đau buốt lên, người tôi rũ rượi không còn chút sức lực nào… Tôi quyết định tự tử nhiều lần nhưng không thành.
Ngày nọ, Điệp là một người hàng xóm đến thăm. Sau khi nghe hoàn cảnh tôi, Điệp nói:
– “Hiếu tin Chúa đi. Chỉ có Chúa mới cứu Hiếu được mà thôi.”
– “Mình đã từng cầu Chúa nhiều lần, nhưng chẳng được gì!”
Sau đó Điệp mời một Cô đến thăm tôi. Cô ôn tồn nói cho tôi nghe về tình yêu và quyền năng của Chúa rồi mời tôi đến với Hội Thánh. Tôi đến nơi thờ phượng Chúa mà lòng phân vân vì ý nghĩ mình đang bị dụ dỗ. Nhưng thật lạ lùng, trong buổi thờ phượng đầu tiên ấy, khi nghe mọi người ca ngợi Chúa, lời ca như mô tả tâm trạng, tấm lòng tôi và tôi mở miệng hòa lòng theo lời ca ấy. Sự bình an bắt đầu thế chỗ cho nỗi lo sợ ngập tràn. Tôi tiếp nhận Chúa ngay trong buổi thờ phượng đầu tiên.
Thời tiết An Khê thay đổi, những cơn mưa đầu mùa kéo theo cơn giông ầm ì. Đường đến nhà tôi ngập những nước và bùn, thế mà mỗi tối Cô đều lặn lội đến dạy những bài học về Đức Chúa Trời và sự yêu thương giải cứu của Ngài dành cho tôi.
Nhưng ban đêm bóng ma hiện đến giận dữ:
– “Phải đuổi người đàn bà nầy ra khỏi nhà, nếu không tao sẽ đuổi mày ra.”
Một lần khác, tôi đang nằm trên võng, không biết bằng cách nào, nó hất tôi rơi xuống đất và văng ra cửa.
Tôi sợ hãi không dám tiếp tục học giáo lý, nhưng Cô bảo tôi:
– “Đây là cuộc chiến, nếu muốn được sống bình an trong Chúa, con cần có Lời Chúa, con phải học Lời của Ngài.”
Tôi nghe lời Cô, quyết định mạo hiểm!
Càng học lời Chúa, tâm trí tôi càng thay đổi. Và rồi không biết tự bao giờ tà linh biến mất! Bệnh tật không còn nữa! Mỗi ngày tôi càng khỏe ra, hồng hào, xinh đẹp.
Dầu vậy chồng tôi cật lực chống đối việc tôi tin Chúa và đi thờ phượng Chúa. Nhưng sau một thời gian nhìn thấy sự đổi mới trong tôi anh đã quyết định tiếp nhận Chúa.
Hai năm vợ chồng tôi sống trong tình yêu của Chúa và của Hội Thánh. Tôi có thêm những người thầy, người mẹ, người bạn yêu thương hướng dẫn tôi áp dụng lời CHúa trong đời sống hằng ngày. Trong chừng mực nào đó, tôi thấy anh thay đổi, tỏ ra có trách nhiệm trong gia đình. Chúng tôi quyết định có thêm một đứa con nữa. Đó là những năm tháng đẹp đẽ trong cuộc hôn nhân đầy sóng gió.
Để chuẩn bị cho em bé sắp chào đời, chồng tôi vào Bình Thuận làm để thêm thu nhập. Không ngờ, xa Hội Thánh, thiếu lời Chúa, ở giữa một cộng đồng vô tín, anh đã dần dần đánh mất niềm tin, những cám dỗ cuốn anh vào con đường cũ. Anh về nhà không một xu dính túi và còn tệ hại hơn trước.
Ngày sinh gần kề, tôi đau đớn khi biết anh quan hệ với phụ nữa khác mà dường như chẳng cần giấu giếm tôi. Người đưa tôi đi sinh không phải là chồng mà là Điệp và Cô. Người chu cấp tài chánh không phải là chồng mà chính là Chúa Jesus. Người an ủi khích lệ tôi cũng chính là Ngài. Trong cơn giông tố của cuộc đời, Cô đặt tên cho cháu là Thiên Ân. Dẫu tình trạng bi đát thế nào tôi cũng tin rằng ân điển Chúa phủ bao cuộc đời tôi.
Mùa thương khó của năm đó đến, lòng tôi nặng trĩu. Tôi muốn kiêng ăn để cầu nguyện cho chồng. Một trận lôi đình xảy ra khi anh thấy tôi kiêng ăn chiều thứ 7. Anh chửi bới tôi và không tiếc lời xúc phạm đến Chúa. Anh trở lại là một con người tệ hại, đánh đập tôi tàn nhẫn và đuổi đi…
Tôi quyết định thật nhanh, vơ vội mấy bộ quần áo rồi dẫn hai con ra đi… Sau nầy tôi mới biết đây chính là giây phút Ngài phóng thích cuộc đời tôi, như Ngài đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà nô lệ.
Sau những năm tháng thăng trầm trong cuộc sống, một mình lặn lội nuôi hai con, cánh tay Ngài luôn giơ ra để nâng đỡ, dìu dắt tôi. Ngài dẫn tôi từng bước đến đất ….. làm việc cho công ty…. Quả thật tôi đang kinh nghiệm lời hứa của Ngài trong Thi Thiên 23. Ngài đã đem tôi đến đồng cỏ xanh tươi và mé nước bình tịnh.
Tôi thuê căn phòng nhỏ, nơi đây là tổ ấm của ba mẹ con. Không còn những tháng ngày thấp thỏm đòn roi. Tôi thật thỏa lòng với hoàn cảnh hiện tại, với đồng lương ít ỏi của tôi. Con tôi đủ ăn đủ mặc để đến trường. Chúng được lớn lên trong tình yêu và sự bao bọc của Chúa và Hội Thánh. Chúa cho tôi được một chiếc xe Honda để đi thờ phượng Chúa và đưa đón con đi học. Tôi yêu mến Hội Thánh và tuần nào cũng đưa con đến thờ phượng Chúa, mặc dầu đường xá xa xôi và nhiều khi không thuận tiện.
Bây giờ con gái Thiên Ân gần được 4 tuổi và con trai lớn của tôi được 13 tuổi. Chúa chữa lành cho Thiên Ân cơn bịnh suyễn hiểm nghèo mà tôi nghĩ chỉ có con đường chết. Ngài đã nhậm biết bao lời cầu xin khẩn thiết của tôi. Làm sao tôi có thể không dâng lời tạ ơn Ngài. Mỗi tối tôi vẫn thường chuyện trò với Chúa và hát bài Thánh Ca:
Ngợi ca Chúa từ ái ban ơn lạ lùng.
Đời tôi vốn tràn những lệ đắng.
Tôi đã hư mất bao ngày.
Lầm than trong nơi tội đầy.
Mà ơn Chúa thương xót khoan nhơn.
(Nguồn: Lê Thị Hiếu, Hạt Muối 12/2010)