George Müller: Đức Tin, Cầu Nguyện, Trẻ Mồ Côi Và Thuyết Giảng

Share

pastedGraphic.png
George Müller (1805-1898)

Trong số những ảnh tượng vĩ đại nhất về những gì có thể đạt được thông qua đức tin đơn sơ là trại trẻ mồ côi lớn có diện tích mười ba mẫu đất ở Ashley Downs, Bristol, Anh. Khi Chúa đặt nó vào trái tim của George Muller để xây dựng những trung tâm trẻ mồ côi, ông chỉ có hai shilling (50 xu) trong túi.

Không hề vận động quyên góp với bất cứ ai, nhưng chỉ kêu cầu với Chúa, hơn một triệu, bốn trăm nghìn bảng Anh ($7.000.000 USD) đã được gửi đến ông để xây dựng và duy trì những trung tâm trẻ mồ côi này.

Khi người viết về ông lần đầu tiên đến thăm những trung tâm này, gần thời điểm ông Muller qua đời, có năm tòa nhà khổng lồ bằng đá hoa cương rắn chắc, có khả năng chứa hai nghìn trẻ mồ côi. Trong tất cả những năm kể từ khi những đứa trẻ mồ côi đầu tiên đến, Chúa đã gửi đến thực phẩm đúng hạn, vì vậy chúng chưa bao giờ mất một bữa ăn.

Mặc dù George Muller đã trở nên nổi tiếng như một trong những người đàn ông cầu nguyện vĩ đại nhất được biết đến trong lịch sử, nhưng ông không phải lúc nào cũng là một vị thánh. Ông đã lang thang rất sâu trong tội lỗi trước khi được đưa đến với Đấng Christ. 

1. Thời Thanh Thiếu Niên Sa Đọa

George Muller sinh ra ở Vương quốc Phổ (Austria) vào năm 1805.

Cha của ông là một người thu tiền cho chính phủ, và là một người đàn ông có tư tưởng thế tục. Ông đã cung cấp cho George và anh trai của mình rất nhiều tiền khi họ còn là những cậu bé, và họ đã tiêu xài rất ngu xuẩn. George đã lừa dối cha mình về số tiền mà cậu đã tiêu, và cả về cách cậu tiêu nó. Cậu cũng ăn cắp tiền của chính phủ trong thời gian cha mình vắng mặt.

Năm mười tuổi, George được gửi đến trường cổ điển thánh đường ở Halberstadt. Cha của cậu muốn cậu trở thành giáo sĩ Luther, không phải để cậu có thể phục vụ Chúa, mà là để cậu có thể có một cuộc sống dễ dàng và thoải mái từ Nhà thờ Nhà nước.

“Thời gian của tôi,” như ông thuật lại: “Bấy giờ đã dành cho việc học, đọc tiểu thuyết, và buông thả mặc dù còn rất trẻ, vào những hành vi tội lỗi. Vì vậy, nó tiếp tục cho đến khi tôi mười bốn tuổi, khi mẹ tôi đột ngột được cất đi. Vào đêm mẹ hấp hối, tôi, không biết về bệnh tình của bà, đã chơi bài đến hai giờ sáng, và vào ngày hôm sau, là ngày của Chúa, tôi cùng với một số bạn đồng hành của mình đến một quán rượu, và sau đó uống đầy bia mạnh, chúng tôi đi dạo phố một cách say sưa. “

“Tôi ngày càng trở nên tồi tệ hơn. “Ba hoặc bốn ngày trước khi tôi được xác nhận (và do đó được phép dự tiệc thánh), tôi đã phạm tội vô đạo đức; và ngay ngày trước khi được xác nhận, khi tôi mặc lễ phục với giáo sĩ để thú nhận tội lỗi của mình (theo thông lệ), sau một cách chính thức, tôi đã lừa dối ông; vì tôi chỉ giao cho ông một phần mười hai lệ phí mà cha tôi đã đưa tôi cho ông ta. “

Một vài suy nghĩ và mong muốn hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn đã đến với chàng trai trẻ Muller, nhưng anh vẫn tiếp tục lún sâu hơn vào tội lỗi. Nói dối, trộm cắp, cờ bạc, đọc tiểu thuyết, thích ăn chơi trác táng, ngông cuồng, và hầu hết mọi hình thức tội lỗi đều do anh ta đã sống buông thả.

Không ai có thể ngờ rằng thanh niên tội lỗi lại trở nên lỗi lạc vì đức tin của mình vào Đức Chúa Trời và vì quyền năng của mình trong lời cầu nguyện. Anh ta đã cướp của cha mình một số tiền thuê nhà mà cha anh ta đã giao cho anh ta để thu thập, làm sai lệch tài khoản của những gì anh ta đã nhận được và bỏ túi số dư.

Tiền của anh ta đã được tiêu vào những thú vui tội lỗi, và một khi anh ta sụp xuống chỗ nghèo khó đến mức, để thỏa mãn cơn đói của mình, anh ta đã ăn trộm một mẩu bánh mì thô, tiền trợ cấp của một người lính có trong ngôi nhà nơi anh ta ở. 

Năm 1821, anh bắt đầu một chuyến du ngoạn đến Magdeburg, nơi anh đã trải qua sáu ngày trong “nhiều tội lỗi.” Sau đó anh ta đến Brunswick, và sống ở một khách sạn đắt tiền cho đến khi hết tiền. Rồi anh ta đến một khách sạn sang trọng ở một ngôi làng lân cận, với ý định lừa người giữ khách sạn. Nhưng những bộ quần áo đẹp nhất của anh ấy đã bị cầm lấy đi thay cho những gì anh ấy mắc nợ. Sau đó, anh đi bộ sáu dặm đến một quán trọ khác, nơi anh ta bị bắt vì cố gắng lừa chủ nhà. Anh đã bị bỏ tù vì tội này khi mới mười sáu tuổi.

2. Từ Tranh Chiến Giữa Sa Đọa, Giả Hình và Chúa Cứu Thế Đến Cầu Nguyện và Trải Nghiệm Được Biến Đổi

Sau thời gian ở tù, chàng trai trẻ Muller trở về nhà của mình và nhận một cú đánh nặng nề từ người cha giận dữ của mình. Anh ta vẫn giữ trong lòng tội lỗi như mọi khi, nhưng để lấy lại niềm tin của cha mình, anh ta bắt đầu sống một cuộc sống rất gương mẫu bề ngoài, cho đến khi anh ta có được niềm tin của tất cả mọi người xung quanh.

Cha anh quyết định gửi anh đến trường học cổ điển ở Halle, nơi có kỷ luật rất nghiêm khắc, nhưng George không có ý định đến đó. Thay vào đó, anh đến Nordhausen, và bằng nhiều lời nói dối và dụ dỗ đã thuyết phục cha anh cho phép anh ở lại đó trong hai năm sáu tháng, cho đến lễ Phục sinh, 1825.

Tại đây, anh đã học tập chăm chỉ, được coi là tấm gương cho các sinh viên khác, và trở nên thành thạo tiếng La-tinh, tiếng Pháp, Lịch sử và ngôn ngữ của riêng mình (tiếng Đức). Ông kể lại: “Nhưng trong khi bề ngoài tôi có được lòng quý trọng của đồng loại,“ Tôi không quan tâm ít nhất đến Chúa, nhưng sống bí mật trong nhiều tội lỗi, hậu quả là tôi bị ốm nặng, và trong mười ba tuần phải cách ly trong phòng của tôi. Trong suốt thời gian đó, tôi không có nỗi buồn thực sự nào về trái tim, nhưng vẫn có những ấn tượng tự nhiên nhất định về tôn giáo, tôi đọc qua các tác phẩm của Klopstock (một nhà thơ người Đức nổi tiếng – LND) mà không hề mệt mỏi. Tôi không quan tâm đến Lời Chúa.”

“Nhưng sau đó tôi cảm thấy mình phải trở thành một con người khác,” ông nói, “và tôi đã cố gắng sửa đổi hạnh kiểm của mình, đặc biệt là khi tôi đến dự tiệc thánh, như tôi thường làm hai lần mỗi năm, với những người đàn ông trẻ tuổi khác. Ngày trước khi tham dự bí tích đó, tôi thường không làm một số việc nhất định, và vào chính ngày đó, tôi rất nghiêm túc, và cũng đã thề một hoặc hai lần với Chúa với :bánh biểu tượng thân thể Chúa bị tan vở” trong miệng, để trở nên tốt hơn, nghĩ rằng vì vì lợi ích của lời thề, tôi nên được khuyến khích để cải cách. Nhưng sau một hai ngày trôi qua, tất cả đều bị lãng quên, tôi lại tệ như xưa ”.

Muller vào Đại học Halle với tư cách là một sinh viên thần học, với những lời chứng thực tốt đẹp. Điều này đủ điều kiện để ông giảng trong nhà thờ Lutheran của chính quyền. Khi ở trường đại học, ông đã tiêu hết tiền để sống một cách gỉa dối. “Khi tiền của tôi đã được tiêu hết,” ông nói, “Tôi đã cầm đồ đồng hồ và một phần vải lanh và quần áo của mình, hoặc mượn theo những cách khác. Tuy nhiên, giữa tất cả những điều này, tôi đã có một mong muốn từ bỏ cuộc sống khốn nạn này, vì tôi không có hứng thú với nó, và còn đủ ý thức để thấy rằng kết cục này hay kết cục khác sẽ chỉ là khốn khổ; vì tôi sẽ không bao giờ có được một cuộc. Nhưng tôi không buồn lòng vì xúc phạm đến Chúa. “

Tại trường Đại học, Muller đã làm quen với một người sa sút đức tin khốn khổ, tên là Beta, người đang cố gắng dùng những thú vui trần tục để xóa bỏ niềm tin tội lỗi của mình. Họ cùng nhau lao vào tội lỗi, và vào tháng 6 năm 1825, George lại bị bệnh.

Sau khi anh bình phục, họ đã giả mạo các bức thư của cha mẹ anh. Với những thứ này, họ có được hộ chiếu và lên đường đến Thụy Sĩ. Muller đã ăn trộm của những người bạn đi cùng và cuộc hành trình này không khiến anh mất nhiều thời gian như họ. Họ trở về nhà để kết thúc kỳ nghỉ và sau đó quay lại trường Đại học, Muller đã nói dối cha mình về chuyến đi đến Thụy Sĩ.

Tại Đại học Halle có khoảng chín trăm sinh viên thần học. Tất cả những người này đều được phép rao giảng, nhưng Muller ước tính rằng có 9 người trong số họ không kính sợ Chúa. “Một buổi chiều thứ bảy, khoảng giữa tháng 11 năm 1825,” ông viết kể lại, “Tôi đã đi dạo với người bạn Beta của tôi. Khi chúng tôi trở về, anh ấy nói với tôi rằng anh ấy có thói quen đến vào tối thứ Bảy đến nhà của một tín đồ Cơ Đốc, nơi có một buổi nhóm. Khi tìm hiểu kỹ hơn, anh ấy nói với tôi rằng họ đã đọc Kinh thánh, hát, cầu nguyện và đọc một bài giảng được in sẵn.

Tôi đã nghe điều này không lâu, nhưng đối với tôi như thể tôi đã tìm thấy thứ gì đó mà sau đó tôi đã tìm kiếm suốt cuộc đời. Tôi ngay lập tức muốn đi với người bạn của tôi, người bạn đã không sẵn lòng đưa tôi đi ngay lập tức; vì biết tôi là một thanh niên lấy say sưa làm vui, anh ấy nghĩ tôi không nên thích cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, cuối cùng, anh ấy nói rằng anh ấy sẽ gọi cho tôi. “

Mô tả cuộc gặp gỡ, Muller nói: “Chúng tôi đã đi cùng nhau vào buổi tối. Vì tôi không biết cách cư xử của các anh em, và niềm vui của họ khi thấy những người tội lỗi đáng thương, dù họ đang chăm lo những điều của Đức Chúa Trời, tôi xin lỗi về chuyện tìm đến họ.

Tôi sẽ không bao giờ quên câu trả lời tử tế của người anh em thân yêu này. Anh ấy nói: ‘Hãy đến thường xuyên khi bạn vui lòng; Ngôi nhà và trái tim luôn rộng mở đối với bạn. “” Sau khi một bài thánh ca được hát, họ quỳ gối xuống, và một anh, tên là Kayser, người sau đó trở thành nhà truyền giáo đến Châu Phi, đã cầu xin Chúa ban phước cho buổi nhóm.

Muller nói: “Việc quỳ xuống này gây ấn tượng sâu sắc cho tôi, vì tôi chưa bao giờ thấy ai quỳ gối cũng như tôi chưa bao giờ quỳ gối cầu nguyện. Sau đó anh ấy đọc một chương và một bài giảng in sẵn; Các cuộc họp thường xuyên để giảng Kinh thánh được cho phép ở Phổ, khi có một giáo sĩ được phong chức hiện diện. Khi sắp kết thúc, chúng tôi hát một bài thánh ca khác, và sau đó người chủ của ngôi nhà cầu nguyện “. 

Buổi nhóm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho Muller. “Tôi đã rất vui mừng”, ông nói, “mặc dù nếu tôi được hỏi tại sao tôi lại vui mừng, tôi không thể giải thích rõ ràng được.”

“Khi chúng tôi đi bộ về nhà, tôi nói với Beta, tất cả những gì chúng tôi đã thấy trên hành trình đến Thụy Sĩ, và tất cả những thú vui trước đây của chúng tôi, chẳng là gì so với buổi tối hôm nay. Tôi có khuỵ gối khi trở về nhà hay không, tôi không nhớ nữa. ; nhưng điều này tôi biết, rằng tôi nằm yên bình và hạnh phúc trên giường của mình. Điều này cho thấy rằng Chúa có thể bắt đầu công việc của Ngài theo những cách khác nhau. Vì tôi không nghi ngờ gì rằng vào buổi tối hôm đó, Ngài đã bắt đầu một công việc ân sủng trong tôi, mặc dù tôi đã đạt được niềm vui mà không có bất kỳ nỗi buồn sâu sắc nào trong lòng, và hầu như không có bất kỳ sự hiểu biết nào. Nhưng buổi tối hôm đó là bước ngoặt trong cuộc đời tôi. Ngày hôm sau, và thứ Hai, và một hoặc hai lần nửa, tôi lại đến nhà của anh này, nơi tôi đọc Kinh Thánh với anh ấy và một anh khác; vì chờ đợi cho đến khi thứ bảy lại đến thì quá lâu. “

“Giờ đây, cuộc sống của tôi đã trở nên rất khác, mặc dù không phải vậy, tội lỗi của tôi đều được từ bỏ ngay lập tức. Những người bạn gian ác của tôi đã bị loại bỏ; việc đi đến các quán rượu không còn nữa; thói quen nói những điều giả dối không còn được yêu thích nữa, nhưng vẫn còn một vài lần nữa tôi đã nói một điều không đúng sự thật …

Bây giờ tôi không còn thói quen sống trong tội lỗi nữa, mặc dù tôi vẫn thường bị khuất phục và thậm chí đôi khi bởi những tội lỗi lộ liễu, mặc dù ít thường xuyên hơn nhiều so với trước đây, và không phải là không có nỗi buồn trong lòng. Tôi đọc Kinh thánh, thường xuyên cầu nguyện, yêu mến anh em, đi nhà thờ với động cơ đúng đắn và đứng về phía Chúa Giê-su Christ, mặc dù bị các bạn học của tôi chê cười. “

Trong vài tuần sau khi cải đạo, Muller đã thăng tiến nhanh chóng trong đời sống Cơ đốc, và anh rất khao khát trở thành một nhà truyền giáo. Nhưng anh đã yêu một cô gái Công giáo La Mã, và trong một thời gian, Chúa đã bị lãng quên. Sau đó, Muller nhìn thấy một nhà truyền giáo trẻ tuổi từ bỏ tất cả những gì xa hoa của một ngôi nhà đẹp đẽ cho Đấng Christ. Điều này khiến anh mở mắt thấy sự ích kỷ của chính mình và khiến anh ta có thể từ bỏ người con gái đã thay thế vị trí của Chúa Giê-su Christ trong lòng anh. Anh ta nói: “Đó là lúc tôi bắt đầu tận hưởng sự bình an của Đức Chúa Trời, điều vượt quá mọi sự hiểu biết. Trong niềm vui sướng này, tôi đã viết thư cho cha và anh trai mình, kêu gọi họ tìm kiếm Chúa và nói cho họ biết cách làm. tôi đã rất vui; tôi nghĩ rằng nếu con đường dẫn đến hạnh phúc được sắp đặt trước mặt họ, họ sẽ sẵn lòng đón nhận nó.

3. Tận Hiến Cho Mục Vụ, Đầy Dẫy Thánh Linh, Năm Nhà Trẻ Mồi Côi Và Thuyết Giảng

George không thể vào bất kỳ cơ sở đào tạo truyền giáo nào của Đức nếu không có sự đồng ý của cha mình, và anh không thể nhận được điều này. Cha anh vô cùng đau buồn rằng sau khi giáo dục anh để anh có được cuộc sống thoải mái như một người trong hàng giáo phẩm mà nay thì anh muốn chuyển sang truyền giáo.

George cảm thấy rằng anh không thể nhận bất kỳ khoản tiền nào từ cha của anh nữa. Chúa đã ban cho anh những phương tiện để hoàn thành việc học của mình. Anh dạy tiếng Đức cho một số giáo sư đại học người Mỹ tại trường Đại học, và họ đã trả công cho anh ấy một cách rộng rãi. Giờ đây, anh là phương tiện để thu phục một số linh hồn đến với Chúa Giê-su Christ. Anh đã phát đi hàng ngàn chứng đạo đơn và bài kêu gọi, và nói chuyện với nhiều người về sự cứu rỗi linh hồn của họ.

Mặc dù trước khi cải đạo, Muller đã viết thư cho cha và kể cho ông nghe về những bài giảng mà anh đã giảng, nhưng anh chưa bao giờ thực sự giảng một bài nào cho đến một thời gian sau khi cải đạo. Anh nghĩ rằng sẽ làm vui lòng cha mình bằng cách khiến ông tin rằng anh đang rao giảng.

Bài giảng đầu tiên của anh là một bản in mà anh đã ghi nhớ. Anh chỉ có chút tự do trong việc rao giảng nó. Lần thứ hai anh giảng ứng khẩu và có một mức độ tự do.

Muller kể lại: “Bây giờ tôi thường xuyên giảng đạo, cả trong các nhà thờ của làng mạc và thị trấn, nhưng tôi chưa bao giờ thích thú khi làm như vậy ngoại trừ khi giảng một cách đơn giản; mặc dù việc lặp đi lặp lại các bài giảng đã được ghi nhớ trong ký ức đã đem lại nhiều lời khen ngợi hơn.

Nhưng cả hai cách rao giảng, tôi không thấy có kết quả. Có thể là ngày cuối cùng sẽ cho thấy lợi ích của những nỗ lực mong manh đó. Một lý do tại sao Chúa không cho phép tôi nhìn thấy bông trái, mà đối với tôi dường như là tôi phải được nâng cao bởi thành công mới đúng. Cũng có thể là do tôi cầu nguyện quá ít cho chức vụ Lời Chúa, và vì tôi ít bước đi với Đức Chúa Trời, và hiếm khi là một bình chứa sự tôn vinh, được thánh hóa và đáp ứng cho việc sử dụng của Chủ. “

Những tín đồ thực sự tại Đại học đã tăng từ sáu lên khoảng hai mươi trước khi Muller rời đi. Họ thường gặp nhau trong phòng của Muller để cầu nguyện, hát và đọc Kinh thánh. Đôi khi Muller đi bộ mười hoặc mười lăm dặm để nghe một vị mục sư thực sự sùng kính giảng đạo.

Năm 1827, Muller tình nguyện đi làm mục sư truyền giáo cho người Đức tại Bucharest, nhưng cuộc chiến giữa người Thổ và người Nga đã ngăn cản điều này. Năm 1828, theo đề nghị của người đại diện của họ, ông đã dâng mình cho Hiệp hội Truyền giáo Luân Đôn với tư cách là một nhà truyền giáo cho người Do Thái. Anh thông thạo tiếng Do Thái và có tình yêu lớn với nó.

Hiệp hội mong muốn anh ta đến London để họ có thể gặp riêng anh ta. Nhờ sự quan phòng của Đức Chúa Trời, cuối cùng ông đã được miễn trừ suốt đời phục vụ trong quân đội Phổ, và ông đến Anh vào năm 1829, lúc hai mươi bốn tuổi. Anh ấy đã không thể nói tiếng Anh trong một thời gian sau khi anh ấy đặt chân đến Anh, và sau đó trong lúc đầu thì anh ấy chỉ nói tiếng được tiếng mất.

Ngay sau khi đến Anh, Muller đã nhận được một kinh nghiệm Cơ đốc sâu sắc hơn, điều này đã hoàn toàn cách mạng hóa cuộc đời anh. “Tôi đến Anh yếu về cơ thể… và kết quả của nhiều nghiên cứu, như tôi cho rằng, tôi bị ốm vào ngày 15 tháng 5, và theo ước tính của riêng tôi, dường như không thể hồi phục.

Thể xác càng yếu thì tâm linh tôi càng vui. Chưa bao giờ trong suốt cuộc đời tôi, tôi thấy mình đã thật hèn hạ, tội lỗi đến mức hoàn toàn không nên là như lúc đó. Cứ như thể mọi tội lỗi tôi đã mắc phải đều được tôi ghi nhớ lại; nhưng đồng thời tôi có thể nhận ra rằng tất cả tội lỗi của tôi đã hoàn toàn được tha thứ – rằng tôi đã được rửa sạch và làm cho trong sạch, hoàn toàn sạch sẽ, trong huyết của Chúa Giê-su. Kết quả của việc này là hòa bình tuyệt vời. Tôi vô cùng khao khát được ra đi và ở với Đấng Christ … “

“Sau khi tôi bị ốm khoảng một tuần, nhân viên y tế của tôi đã bất ngờ tuyên bố tôi tốt hơn. Điều này, thay vì mang lại cho tôi niềm vui, tôi đã cúi đầu xuống, tôi rất mong muốn được ở bên Chúa; mặc dù hầu như ngay sau đó, ân điển đã được ban cho tôi để phó chính mình tôi theo ý muốn của Chúa. “

Muller luôn coi trải nghiệm trên là trải nghiệm đã làm sâu sắc thêm toàn bộ đời sống tâm linh của ông được thể hiện rõ ràng qua một bức thư của ông xuất hiện trên tờ Christian của Anh, ngày 14 tháng 8 năm 1902.

Trong lá thư này, Muller nói: “Tôi đã tin Chúa Giê-xu vào đầu tháng 11 năm 1825, bây giờ là sáu mươi chín năm và tám tháng. Trong bốn năm đầu tiên sau đó, phần lớn là do tôi rất yếu đuối; nhưng vào tháng Bảy năm 1829, bây giờ là sáu mươi sáu năm kể từ đó, nó đã đến với tôi với một trái tim đầu phục hoàn toàn và trọn vẹn. Tôi đã dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Danh dự, thú vui, tiền bạc, sức mạnh thể chất, sức mạnh tinh thần của tôi, tất cả đều nằm dưới chân Chúa Giê-xu, và tôi trở thành một người yêu mến Lời Chúa tuyệt vời. Tôi đã tìm thấy tất cả của mình trong Chúa, và do đó, trong mọi thử thách của tôi về một đặc tính vật chất và tâm linh, sự dâng mình đó vẫn duy trì trong sáu mươi sáu năm.

Đức tin của tôi không chỉ được thực hiện liên quan đến những điều tạm thời, nhưng về mọi thứ, bởi vì tôi tuân theo Lời. Sự hiểu biết của tôi về Đức Chúa Trời và Lời của Ngài là điều giúp ích cho tôi. “

4. Cầu Nguyện, Đầy Dẫy Đức Thánh Linh, Yêu Thương và Năng Quyền Phục Vụ

Được khuyên nên về miền quê để dưỡng sức, anh đã cầu nguyện và cuối cùng quyết định đi. Anh đến Devonshire, nơi mà ân phước to lớn mà anh đã nhận được đã được tăng thêm rất nhiều nhờ những cuộc trò chuyện và cầu nguyện của anh với một mục sư đầy dẫy Thánh Linh mà anh lần đầu tiên được nghe giảng tại Teignmouth.

Qua các cuộc trò chuyện và bài giảng của vị mục sư này, anh đã được dẫn dắt để thấy rằng “chỉ có Lời Đức Chúa Trời là tiêu chuẩn phán xét của chúng ta về những điều thuộc linh; điều đó chỉ có thể được giải thích bởi Đức Thánh Linh của Ngài; và rằng trong thời đại của chúng ta, như cũng như trong thời xưa, Ngài là thầy dạy của dân sự của Ngài. Chức vụ của Đức Thánh Linh mà tôi chưa hiểu bằng thực nghiệm trước thời điểm đó,” anh ấy nói. “Kết quả của việc này là, buổi tối đầu tiên tôi đóng cửa trong phòng để cầu nguyện và suy ngẫm về Kinh thánh, tôi đã học được. nhiều hơn trong vài giờ so với tôi đã làm trong khoảng thời gian vài tháng trước đó. “

Một lần nữa, anh ấy nói: “Ngoài những lẽ thật này, Chúa còn vui lòng dẫn tôi đến một tiêu chuẩn cao hơn về sự tận tụy so với những gì tôi đã từng thấy trước đây.”

Khi trở về London, Muller đã tìm cách dẫn dắt những người anh em của mình trong trường đào tạo đến với những chân lý sâu sắc hơn mà anh đã nhận ra. 

“Cụ thể là một anh em, đã được đưa vào tình trạng giống như tôi; và những người khác, tôi tin tưởng, ít nhiều cũng được ích lợi. Nhiều lần, khi tôi về phòng sau khi cầu nguyện chung, tôi thấy sự hiệp thông với Chúa thật ngọt ngào đến nỗi tôi tiếp tục cầu nguyện cho đến sau mười hai giờ, và sau đó tràn đầy niềm vui, đi vào phòng của người anh vừa được giới thiệu, và tìm thấy anh ta. cũng trong tâm hồn tương tự, chúng tôi tiếp tục cầu nguyện cho đến một hoặc hai giờ, và thậm chí sau đó tôi vui mừng đến mức không thể ngủ được, và lúc sáu giờ sáng lại gọi anh em cùng cầu nguyện. “

Sức khỏe của Muller giảm sút ở London và tâm hồn anh giờ đây cũng đang cháy bỏng vì Chúa đến nỗi anh không thể ổn định với công việc học tập hàng ngày. Niềm tin mới có được của anh ấy về sự tái lâm của Đấng Christ cũng thôi thúc anh ấy tiến tới làm việc cho sự cứu rỗi các linh hồn.

Anh cảm thấy rằng Chúa đang dẫn dắt anh bắt đầu ngay công việc Cơ đốc mà anh hằng ao ước, và vì Hiệp hội Truyền giáo Luân Đôn không thấy thích hợp để gửi anh ra ngoài mà không có khóa đào tạo theo quy định, anh quyết định đi ngay lập tức và tin tưởng rằng Chúa sẽ ban cho các phương tiện hỗ trợ.

Ngay sau đó, anh trở thành mục sư của Nhà nguyện Ebenezer, Teignmouth, Devonshire. Sau đó, anh kết với cô Mary Groves vào năm1830 (Mary về với Chúa năm1875), một phụ nữ Devonshire. Cô luôn một lòng với chồng và cuộc sống hôn nhân của họ rất hạnh phúc.

Không lâu sau khi kết hôn, ông bắt đầu đắn đo về việc nhận lương đều đặn, và cả về việc thuê băng ghế trong nhà thờ của anh. Ông cảm thấy rằng người thứ hai đang cho “người đàn ông đeo nhẫn trên ngón tay” chỗ ngồi tốt nhất, và người anh em nghèo hơn chiếc ghế để chân, và người thứ nhất đang lấy tiền từ những người không cho “vui vẻ” hoặc “như Chúa đã ban thịnh vượng cho họ.”

Hai phong tục này đã bị ông ngưng. Vợ chồng anh không nói với ai những nhu cầu của mình cho ai khác ngoài Chúa. Đôi khi các báo cáo được lan truyền rằng họ đang chết đói; nhưng dù có lúc đức tin của họ bị thử thách, thu nhập của họ vẫn lớn hơn trước. Vợ chồng anh đã cho đi một cách tự do tất cả những gì họ có trên nhu cầu hiện tại của họ, và tin cậy Chúa cho “bánh hàng ngày” của họ.

Muller đã rao giảng ở nhiều thị trấn xung quanh, và nhiều linh hồn đã được đưa đến với Đấng Christ trong các buổi nhóm của ông. Năm 1832, ông cảm thấy ấn tượng sâu sắc rằng, công việc của ông đã kết thúc ở Teignmouth, và khi ông đến Bristol cùng năm đó, ông đã có ấn tượng sâu sắc rằng Chúa sẽ cho ông làm việc ở đó.

Khi Thánh Linh, Lời và sự quan phòng của Đức Chúa Trời đồng ý, chúng ta có thể khá chắc chắn rằng Chúa đang dẫn dắt chúng ta, vì ba điều này luôn luôn hòa hợp và không thể bất đồng. Muller không chỉ cảm thấy được Chúa dẫn dắt đến làm việc tại Bristol, mà sự quan phòng của Chúa đã mở đường, và dường như nó hòa hợp với Lời Chúa.

Muller bắt đầu phục vụ ở Bristol vào năm 1832, với tư cách là đồng mục sư với người bạn của mình, ông Craik, người đã được gọi đến thành phố đó. Không có lương hoặc thuê ghế dài, công vụ của họ đã được ban phước rất nhiều tại các nhà nguyện Gideon và Bethesda. Số lượng thành viên tăng hơn gấp bốn lần trong một thời gian ngắn.

Mười ngày sau khi Bethesda mở cửa, có một đám đông người đang tìm đến sự cứu rỗi đến nỗi phải mất bốn giờ đồng hồ để phục vụ họ. Sau đó, nhà nguyện Gideon bị phá bỏ, và trong thời gian đó, hai nhà nguyện lân cận đã được đảm bảo an toàn.

Những nhà thờ này, mặc dù tự gọi mình là không theo giáo phái, thường được xếp vào nhóm những người thường được gọi là “Nhóm Anh Em Plymouth” (Plymouth Brethren). Muller vẫn tiếp tục rao giảng cho họ trong suốt đời sống, ngay cả sau khi ông bắt đầu công việc vĩ đại của mình cho những đứa trẻ mồ côi. Vào thời điểm ông qua đời, ông có một hội thánh khoảng hai nghìn người tại Nhà nguyện Bethesda.

Năm 1834, Muller thành lập Học Viện Kiến thức Kinh thánh cho Gia đình và Nước ngoài. Mục tiêu của nó là hỗ trợ các trường học ban ngày của Cơ đốc giáo, hỗ trợ các nhà truyền giáo, và lưu hành Kinh thánh. Định chế này, không có sự bảo trợ của thế gian, không nhờ bất cứ ai giúp đỡ, không có các khoản nợ; không có ủy ban vận động, người đăng ký hoặc tư cách thành viên; nhưng chỉ nhờ đức tin nơi Chúa, đã kiếm được và giải ngân số tiền không dưới 1.500.000 bảng Anh (7.500.000 USD) vào thời điểm ông Muller qua đời. Số tiền này tương đương với 113 triệu bảng Anh ngày nay.

Phần lớn số tiền này được dùng cho trại trẻ mồ côi. Vào thời điểm ông Muller qua đời, 122.000 người đã được dạy trong các trường học được hỗ trợ bởi các quỹ này; và khoảng 282.000 Kinh thánh và 1.500.000 Kinh Thánh Tân Ước đã được phân phối.

Ngoài ra, 112.000.000 cuốn sách, tập sách nhỏ về niềm tin đã được lưu hành; các nhà truyền giáo đã được trợ giúp ở mọi nơi trên thế giới; và không dưới mười ngàn trẻ mồ côi đã được chăm sóc bằng chính quỹ này.

Muller tục huyền, kết hôn với bà Susanah Grace Sanger vào năm 1871 (bà về với Chúa năm 1894). Vài năm sau, ở tuổi bảy mươi, Muller bắt đầu thực hiện những chuyến truyền giảng lớn. Bà Susanah là một người vợ đắc lực đồng hành với ông Ông đã đi 200.000 dặm, đi khắp thế giới và rao giảng ở nhiều vùng đất và bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ông thường xuyên nói chuyện với tới 4.500 hoặc 5.000 người.

Ông đã ba lần thuyết giảng trong suốt chiều dài và bề rộng của Hoa Kỳ. Ông tiếp tục các chuyến đi truyền giáo hoặc truyền đạo cho đến khi ông chín mươi tuổi. Ông ước tính rằng trong mười bảy năm làm công việc truyền giảng này, ông đã tiếp xúc với ba triệu người. Tất cả các chi phí của ông đã được gửi đến qua sự đáp lại lời cầu nguyện của đức tin.

pastedGraphic_1.png
Một trong năm trung tâm trẻ mồ côi lớn nhất George Müller xây ở Bristol, Anh

 

Sau đời sống cầu nguyện và đức tin vĩ đại của Muller, công việc “mắt thấy được” lớn nhất của Muller là xây dựng và duy trì các trung tâm trẻ mồ côi lớn ở Bristol. Vào năm 1836, dù có những lúc gia đình không đủ ăn, hai ông bà Muller-Mary bắt đầu công việc chỉ với hai shilling (50 xu) trong túi. Ông lấy đức tin cầu nguyện và công bố rằng nếu Chúa đã kêu gọi gia đình ông bà dấn thân vào mục vụ chăm sóc trẻ mồ côi, thì ông bà không cần kêu gọi vận động dâng hiến. Chúa đáp lại lời cầu nguyện của ông. Ông đã nhận được các phương tiện cần thiết để xây dựng các tòa nhà vĩ đại và nuôi những đứa trẻ mồ côi từng ngày trong sáu mươi năm.

Trong tất cả thời gian đó, bọn trẻ không phải đến phòng ăn mà không có bữa ăn, và ông Muller nói rằng nếu chúng từng phải đến nơi ăn mà không có bữa ăn, ông sẽ coi đó là bằng chứng rằng Chúa sẽ không tiếp tục công việc. Đôi khi gần đến giờ ăn và họ không biết thức ăn sẽ đến từ đâu, nhưng Chúa luôn gửi đến đúng hạn, trong suốt hai mươi ngàn ngày trở lên khi ông Muller phụ trách các trung tâm.

Vào thời điểm ông về với Chúa, Chúa đã dùng ông và những người cộng tác xây dựng 5 trung tâm chăm sóc cho 10,000 thiếu niên mồ côi.

George Ferdinand Muller về với Chúa vào ngày 10 tháng 3 năm 1898. Số người đến dự đám tang đông đến nổi cả thành phố Bristol bị tê liệt. Hình ảnh này phản ảnh một di sản của một đời sống ăn năn, biến đổi, tận hiến, cầu nguyện, cậy nhờ Đức Thánh Linh, chia sẻ Tin Lành và yêu thương phục vụ. Di sản này vẫn phải được chúng ta tiếp nối.

 

Nguyễn Bình & Văn Bình

(Lược dịch theo: wholesomewords.org)

Bài Viết Chọn Lọc

Bài Viết Được Quan Tâm

Bài Viết Liên Quan