Kinh Thánh trích dẫn trong bài viết là từ Bản Dịch Mới 2002.
Tác giả bài viết là Joseph Mattera, Giám Mục Trưởng của Hội Thánh Phục Sinh, Liên Hiệp Giao Ước Đấng Christ, Brooklyn, New York. Dù dựa trên kinh nghiệm ở Hoa Kỳ, nội dung của bài viết hoàn toàn phản ảnh diễn tiến và kinh nghiệm thực tiễn ở Úc.
Cho dù bạn là người ủng hộ hay chống lại hôn nhân đồng tính, đồng tính luyến ái, bạn phải nể phục cách mà những người hoạt động đồng tính đã làm biến đổi xã hội Hoa Kỳ chỉ trong một thế hệ. Những kế hoạch và chiến lược của phong trào và cách họ đi từ chỗ là một thiểu số bị coi thường đến vị thế được bảo vệ và coi như là tinh hoa trong dòng mạch chính của xã hội.
DƯỚI ĐÂY LÀ NHỮNG CHIẾN LƯỢC CỦA HỌ:
1. Họ đã thành công trong việc thay đổi định nghĩa của Từ Ngữ.
Kể từ khi A-đam đặt tên cho các loài thú, một sự thật không chối cãi được là người định nghĩa từ ngữ sẽ nắm quyền kiểm soát cuộc đối thoại. Từ thập niên 1970 những người hoạt động đồng tính đã thành công trong việc khóa chặt từ ngữ khoa học chuyên môn “homosexual” dùng để nói về đồng tính và thay thế bằng nó từ ngữ “gay.” Đây là một mưu kế xuất sắc vì trong tiếng Anh, chữ gay chứa đựng những ý nghĩa về văn hóa và cảm xúc nói về sự vui vẻ và không bị ràng buộc khác hẳn với chữ “đồng tính” homosexual là chữ có đặc tính nhấn mạnh sự khác biệt giữa đa số có bản tính tình dục nam nữ (heterosexual) khác với thiểu số là tình dục đồng tính. (Cộng đồng giới đồng tính đã từng có thời gian được gọi như là “kỳ quái” vì cái nhìn thấy được sự khác biệt sâu xa này).
Nếu hội thánh muốn lấy lại ảnh hưởng văn hóa, hội thánh phải làm việc cật lực trong cách trình bày “nhãn” (branding) của mình với những từ ngữ có tác dụng đòn bẩy tạo ấn tượng làm truyền thông sứ điệp.
2. Họ thâm nhập vào những tầng lớp quan trọng của văn hóa.
Từ Cựu Tổng Thống Obama cho đến Ngũ Giác Đài; từ ca sỹ nhạc Rock, những nhân vật nổi tiếng, nhà sản xuất phim và nhà điền kinh cho đến các nhà phân tâm học, giáo dục và cả hai đảng Cộng Hòa lẫn Dân Chủ; từ những doanh gia vĩ đại như George Soros, Tim Gill và Michael Bloomberg cho đến những hệ phái Cải Chánh như Giáo Hội Episcopal – những người hoạt động đồng tính đã thành công thâm nhập và ảnh hưởng đến tất cả những tầng lớp cao nhất trong dòng văn hóa chính mạch. Bao lâu mà các hội thánh Tin Lành còn ở vòng ngoài của xã hội, chỉ biết tập trung vào những sinh hoạt bên trong hội thánh địa phương thay vì dấn thân vào lãnh vực cộng đồng, họ sẽ bị thất thế trong những cuộc chiến văn hóa. Lãnh vực xã hội mà hội thánh thất bại không gây ảnh hưởng được sẽ là cái quay ngược lại và đạp lên hội thánh.
3. Họ đầu tư tiền bạc vào những Ứng Cử Viên ham mê những giá trị của họ.
Trong cuộc chiến cho sự công nhận hôn nhân đồng tính vào năm 2011, cả Thị Trưởng New York Bloomberg và Tim Gill đã đổ hàng triệu đô để ủng hộ các Thượng Nghị Sỹ trong tiểu bang New Yorklà những người sẽ bỏ phiếu cho hôn nhân đồng tính. Trong những hoạt động cố gắng của tôi, tôi được các nhà lãnh đạo chính trị nói cho biết rất nhiều lần là túi tiền sâu rộng của những người đồng tính ảnh hưởng lá phiếu của họ, rất đơn giản, chỉ vì họ cần tiền để có thể tái đắc cử, mặc dù trong lòng họ họ không chấp nhận đồng tính luyến ái.
Các hội thánh Tin Lành cần làm nhiều hơn là chỉ giảng lên quan điểm của mình trong ngày Chúa Nhật; cần phải khuyến khích các cơ đốc nhân là doanh gia đóng góp tài chánh và lập những ủy ban hành động, là những cách hợp pháp và hợp lý để lập nên những hỗ trợ tài chánh cho những ứng cử viên xứng đáng và thích hợp.
4. Họ đã thành công trong việc thay đổi văn hóa từ “Dung Nhập” trở nên “Chào Mừng Lễ Hội” Đồng Tính Luyến Ái.
Tôi còn nhớ vào thập niên 1990s, từ ngữ luôn được giới truyền thông dùng khi nói đến cách ứng xử với những người đồng tính là “DUNG NHẬP”. Giờ đây, tôi hiếm khi nghe được chữ đó. Bởi vì những người hoạt động đồng tính đã thành công “cải hóa” được dòng văn hóa chính mạch trở thành một dòng văn hóa “chào mừng lễ hội” với lối sống đồng tính. Phải thấy là cái gọi là văn hóa “dung nhập” này lại rất là “không dung nhập” những cái nhìn khác về vấn đề đồng tính của các hội thánh Cơ Đốc. Hiện nay, những Cơ Đốc Nhân tin kính có lẽ là những người cần phải thúc đẩy sự “dung nhập” cho quan điểm của họ bởi vì họ đang là một thành phần thiểu số (bị bắt bớ) trong xã hội ngày nay. Thật khó mà tin được, nhưng có một thời kỳ không lâu trước đây từ trước năm 1967 đến năm 1960, các giá trị Cơ Đốc Giáo đã được chào mừng trong dòng chính mạch xã hội. Có lẽ hội thánh cần những bước đi rất dài để có thể làm cho điều này xuất hiện trở lại.
5. Họ đã thâm nhập được vào Hội Thánh.
Thần Học Đồng Tính đã thâm nhập nhiều trường học, trường Kinh Thánh và chủng viện của Công Giáo lẫn Tin Lành. Đây là loại thần học diễn giải lại Kinh Thánh (vốn phán dạy chống lại đồng tính) theo cách cho rằng sống đồng tính không còn là điều trái nghịch, bởi vì điều dạy này chỉ là một dạng văn hóa của quá khứ không còn thích hợp với văn hóa ngày nay). Hiện nay đang có cả những hệ phái của những người đồng tính, giống như Hội Thánh Metropolitan church. Sâu xa hơn nữa, có những tổ chức như là Soulforce, tìm cách tiếp cận các hội thánh Tin Lành và mời gọi các lãnh đạo hội thánh hay hội chúng tham gia vào những cuộc đối thoại với họ với mục đích trước là kết bạn với họ và sau là “cải đạo” họ đi theo thần học đồng tính.
Bao lâu mà các hội thánh Tin Lành đối xử với cộng đồng người đồng tính như là những người bệnh phung và chỉ biết lấy những bài giảng chống lại họ thay vì cố gắng làm bạn và đáp ứng những nhu cầu thuộc linh và đời sống của họ, cộng đồng người đồng tính sẽ tiếp tục “cải đạo” những cơ đốc nhân trong khi các hội thánh tin vào Kinh Thánh sẽ mất đi sức “cải đạo” người đồng tính vì thiếu sự tiếp cận thực tiễn và yêu thương với những người đồng tính. Trong cùng cách mà những nhóm đồng tính tiếp cận và thâm nhập vào hội thánh thì hội thánh cũng vươn ra và phục vụ người đồng tính, thâm nhập vào các tổ chức của họ với tình yêu thương và lẽ thật của Chúa. Chúng ta cũng phải nhận thức rằng có một sự đói khát thuộc linh và tìm kiếm Chúa Giê-su trong vòng những người đồng tính, và đó là lý do tại sao có nhiều người trong bọn họ đến với hội thánh và mong được một sự chấp nhận. Tôi tin rằng mùa gặt đã chín vàng trong mỗi nhóm người trong dó có cộng đồng người đồng tính.
6. Họ nối kết với nhau trong những sự kiện và chương trình hàng năm.
Mỗi năm trong mỗi thành phố lớn trên thế giới, cộng đồng người đồng tính kết nối lại hàng triệu người và làm lễ hội chào mừng lối sống của họ. Ở thành phố New York, trên một triệu người xuống đường tham dự lễ hội vào mỗi Chúa Nhật cuối tháng 6. Những cuộc diễn hành này mang tính chất chào đón sự sống, lối sống và những thành quả của cộng đồng người đồng tính và được hầu hết các đảng phái và những người lãnh đạo trong xã hội tham dự. Hàng triệu người bị thu hút vào những chương trình lễ hội này và tính chất nối kết toàn cầu với nhau của chúng!
Thật bất hạnh thay, tôi nhớ lại 15 hay 20 năm trước đây, khi có một cố gắng để có chương trình “Diễn Hành Cho Chúa Giê-su” ở nhiều thành phố thì lúc đầu có vài chục ngàn người tham dự nhưng sau vài năm nó bị co cụm lại chỉ còn vài ngàn. Ngay cả khi so sánh với những cuộc diễn hành của những nhóm đồng tính vào thời đó thì những cuộc diễn hành của cơ đốc nhân thật là đáng xấu hổ! Mặc dù số người của các hội thánh tin vào Kinh Thánh đông gấp bao nhiêu lần số người đồng tính, con số đông như thế chẳng là gì nếu chúng ta không biết cách nào và khi nào để nối kết lại với nhau để “lễ hội” cho Chúa và Vua Giê-su của chúng ta.
7. Họ đang chiến thắng cuộc chiến tranh tuyên truyền
Khi đụng đến vấn đề hôn nhân đồng tính, những người chủ trương đồng tính đã thành công khi thay đổi được cái tên của cuộc tranh chiến thành “Bình Đẳng Hôn Nhân” – ai có thể chống lại với sự hôn nhân bình đẳng? Họ thành công kết nối được quyền của người đồng tính với phong trào quyền bình đẳng của những thập niên 1950s và 60s. Thí dụ cuộc nổi dậy Stonewall vào thập niên 1960s, ngày nay trở thành biểu tượng của phong trào quyền bình đẳng, với sự tủi nhục của những người Hoa Kỳ gốc châu Phi! Và họ thành công trong việc dán nhãn lên những ai không chấp nhận vấn đề hôn nhân đồng tính với những chữ “thù ghét người đồng tính” hay “mù quáng.” Họ đã thành công vượt bực trong việc tạo nên những chữ rất “kêu” để truyền thông sứ điệp của họ đến nỗi bất cứ ai trong các tổ chức truyền thông chính mạch hay trong các cơ quan công quyền mà lên tiếng chống lại vấn đề đồng tính đều bị cho nghĩ việc hay bị phạt vạ. Tôi cần làm sáng tỏ ở đây. Tôi chống lại những cách đối xử hay phỉ bang những người đồng tính. Tôi cũng thấy là ngày nay đang có một trào lưu cho giới truyền thông và những người nổi tiếng trong xã hội là sẵn sàng tấn công những cơ đốc nhân hay cơ đốc giáo mà không bị gì hết!
Nhưng rất đáng tiếc thay, các cơ đốc nhân tin Kinh Thánh đã trở nên biết đến vì những gì họ chống lại hơn là vì những gì họ xây dựng. Các hội thánh Tin Lành cần phải thay đổi thái độ này nếu chúng ta còn muốn hy vọng phục hồi lại ảnh hưởng văn hóa mà chúng ta đã mất đi.
8. Họ đã thành công trong việc dựng lên lối sống “con người bình thường” của họ bằng cách dựng lên sự thương xót và tình trạng là nạn nhân.
Có vô số phim, truyện, kịch và hài kịch làm mất đi tính nhạy cảm văn hóa trước đây đã khiến người ta thấy kinh hoàng về lối sống đồng tính bằng cách đưa ra hình ảnh những người đồng tính như là những nạn nhân hay chỉ là những con người bình thường với cuộc sống bình thường và có những nan đề như mọi người. (Công tâm mà nói, nhiều cơ đốc nhân bảo thủ cần phải có những liều thuốc thực tế trong vấn đề này vì nhiều người trong số họ chỉ nghĩ đơn giản rằng những người đồng tính là những kẻ bạo hành tình dục trẻ em, người không kiểm soát được chứng đam mê tình dục, hay là kẻ làm lây lan bệnh AIDS cho người khác). Vì thế mà qua giới truyền thông, phong trào đồng tính đã thắng được tâm trí của người Hoa Kỳ bằng cách nối kết được với quần chúng dễ dàng cảm xúc. Thí dụ, phim Brokeback Mountain đã thành công khi cho thấy hai chàng chăn bò “Cowboy” mạnh mẽ và sống đầy sóng gió có thể yêu nhau lãng mạn, và do đó đánh vỡ cái nhìn cho rằng “đồng tính nam” không phải là không có nam tính.
Hội thánh cần phải hết sức làm cho mình có hình ảnh “người” trước con mắt của quốc gia. Thay vì để cho giới truyền thông tô vẽ hội thánh như là những kẻ huênh hoang giảng Kinh Thánh, chỉ biết nói đến sự ghét bỏ, mù quáng – Cơ đốc nhân cần sáng tạo những phim ảnh, tiểu thuyết, kịch, âm nhạc và nhạc kịch cho thấy họ là những người có đầy lòng cảm thông, sáng tạo, tha thứ và yêu thương.
Một kinh nghiệm rất thực mà tôi có khi quan sát các hội thánh tin Kinh Thánh trong 4 thập niên qua trong những văn hóa, xứ sở và bối cảnh khác nhau. Cơ Đốc Giáo có thể không toàn hảo, nhưng kể từ ngày Phục Sinh, những người sống theo Đấng Christ đã tích cực ảnh hưởng đến thế giới hơn bất cứ một phong trào nào khác. Họ khởi xướng lên về nhà thương và những trường Đại Học vĩ đại. Họ giáo dục toàn bộ các quốc gia và sản sinh ra những nhà khoa hoạc vĩ đại như Isaac Newton, nhà soạn nhạc như Bach, Beethoven, Handel, cải cách luật về trẻ em lao động, dẫn đầu cuộc chiến chống bệnh AIDS và cải chánh tình trạng nhà tù (Chuck Colson), khởi sinh ra những tổ chức như Chữ Thập Đỏ và Khải Tượng Hoàn Cầu, và hiện nay đang dẫn đầu trong việc chống lại sự buôn bán tình dục toàn cầu – ở đây chỉ mới nêu ra một số ít. Hội thánh đã có hơn 2000 năm lịch sử như vậy và có thể được dùng để tích cực bày tỏ Cơ Đốc Giáo là như thế nào với thế giới!
9. Giáo trình của họ được dạy trong chương trình học của các trường công.
Những nhóm liên hợp Đồng Tính Nam, Đồng Tính Nữ, Lưỡng Tính Tình Dục và Đổi Giống (LGBT, viêt tắt của Lesbian-Gay-Bisexual-Transgender) đang được ủy quyền thực hiện những huấn luyện tế nhị và nhạy bén trong những ngành thể thao chuyên nghiệp, quân đội và trường công. Những người đồng tính đã thành công thâm nhập vào những ban quản trị của nhiều cộng đồng, câu lạc bộ chính trị và ban giám hiệu trường học – để rồi họ thành công đặt những học trình dựa theo quan điểm đồng tính trong nhiều trường công, với những sách như “Heather Có Hai Người Mẹ.”
Ngay sau khi nước Hoa Kỳ được thành lập, Hoa Kỳ khởi xướng các trường công cho mục đích giáo dục niềm tin theo nền tảng Kinh Thánh. Không chỉ thế thôi, các hội thánh Tin Lành cũng khởi xướng hầu hết những Đại Học nổi tiếng ở miền Đông nước Hoa Kỳ trong đó có Havard, Princeton, Yale và Columbia, với mục đích đào tạo những thế hệ kế tiếp có một thế giới quan Cơ Đốc. Nếu các hội thánh Tin Lành không một lần nữa trang bị thế hệ kế tiếp bằng giáo dục, họ sẽ tiếp tục cái chu kỳ đánh mất ảnh hưởng văn hóa. Thêm nữa, chúng ta không chỉ cần có thêm những mục sư, chúng ta cũng cần nuôi dưỡng những giáo sư luật, lịch sử, triết, xã hội và chính trị với một thế giới quan kinh thánh để dạy trong những trường đại học đẳng cấp thế giới – bởi vì tấm lòng sẽ không thể thờ phượng với một tâm trí chối bỏ.
10. Họ đã thành công trong việc thay đổi luật pháp của quốc gia.
Sách Ê-xơ-tê dạy chúng ta rằng có những lúc thật là không đủ khi chỉ có buổi nhóm cầu nguyện và ăn năn – chúng ta cần thay đổi luật pháp nếu chúng ta muốn cứu dân mình. Những người hoạt động đồng tính đã thâm nhập và ảnh hưởng trong mọi tầng lớp của xã hội, ngay cả Tối Cao Pháp Viện. Hầu hết các tiểu bang đã hợp pháp hóa luật hôn nhân đồng tính bằng các đạo luật hay phán quyết tòa án. Chỉ có một ít tiểu bang làm như vậy bằng cách qua trưng cầu dân ý. Ở California đạo luật hôn nhân đồng tính đã bị đánh bại bởi phiếu bầu phổ thông nhưng lại bị lật ngược bởi tòa hiến pháp.
Để có thể giữ được ảnh hưởng văn hóa, hội thánh cần xây dựng thế hệ kế tiếp là những quan tòa, các luật sư và lãnh đạo chính trị thông minh và hội đủ tiêu chuẩn nhất mà nước Hoa Kỳ có thể có được. Con cháu chúng ta phải được gửi đến những trường Đại Học tốt nhất trên thế giới, được trang bị với một thế giới quan Cơ Đốc để chúng có thể biến đổi cả trường học và văn hóa của chúng. Nếu chúng ta chỉ gửi những thanh niên Cơ Đốc đến trường Kinh Thánh để trở thành Mục sư hay Giáo sỹ và bỏ qua môi trường công chúng, chúng ta sẽ tiếp tục là những nhóm ngoài lề, cho dù đúng là chúng ta có số người nhiều hơn những nhóm khác bao nhiêu lần nhân bội. Không phải là con số, nhưng là ảnh hưởng, và những người đồng tính đang làm một công việc ngoại hạng là nắm bắt được những ảnh hưởng văn hóa bằng những cách mà hội thánh có thể dễ dàng loại trừ nếu chúng ta thành thật, tự giác và lấy đầu chúng ta ra khỏi bãi cát!
Tôi không đổ lỗi cho cộng đồng đồng tính về vấn đề hôn nhân đồng tính. Tôi yêu thương và tôn trọng mỗi người đồng tính như là với bất cứ một con người. Với sự sa sút của hôn nhân truyền thống, tôi chỉ trích tỷ lệ ly dị cao của những cuộc hôn nhân nam nữ và sự thất bại của hội thánh đã không sống là muối và ánh sáng trong những thế hệ vừa qua
Trong một thế giới dựa trên luật gieo và trồng cũng như tiêu chuẩn đòi hỏi, cộng đồng người đồng tính thu hoạch được ảnh hưởng của họ trên văn hóa vì họ đã làm việc cật lực trong nhiều thế hệ để thu hoạch được sự chấp nhận văn hóa và lễ hội. Cũng vậy, một hội thánh tập trung vào sự tránh né hơn là tiếp cận với trái đất sẽ tiếp tục trở nên càng ngày càng không thích hợp.
Để kết thúc, tôi thấy là đang có những dấu hiệu không ngờ được về một hy vọng rằng hội thánh toàn cầu đang bắt đầu nắm bắt sự ủy nhiệm văn hóa (Sáng Thế 1.28) và sẽ một lần nữa nuôi dưỡng một thế hệ của những nhà tư tưởng, văn chương, soạn nhạc và văn hóa vĩ đại mà thế giới chưa từng thấy. Tôi cũng tin là Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người theo Đấng Christ và tin Kinh Thánh, là những người sẽ làm công việc của Đấng Christ và mạnh mẽ tiếp cận và yêu thương những người đồng tính thay vì xa cách và tẩy chay họ. Chúng ta sẽ không bao giờ đến được với những người người mà chúng ta không thể yêu thương bằng cả lời nói lẫn hành động.
(Nguồn: http://ausprayernet.org.au/feature/feature_articles_10.php)
Chuyển Ngữ: Văn Bình và Naphtal