Chưa Phải Lúc Để Chết!

Share

BEN PRIEST nạp đầy hê-rô-in vào ống tiêm. Xuyên mũi kim vào ven với sự khéo léo lão luyện, anh cảm thấy luồng chảy quen thuộc chạy khắp cơ thể mình. Đã biết bao nhiêu lần anh đã từng trải qua những động tác này? Phải hàng nghìn lần, không sai.

Nhưng dù sao đi nữa Ben vẫn biết là lần này sẽ khác. Bởi vì vào ngày này, 11 tháng Năm 1980, là ngày mà anh sẽ chết. Ben chưa từng sử dụng một cơ hội nào để làm điều đó. Anh cho cocain vào sau heroin. Sau đó, để cho chắc, anh tiêm thêm cả crystal (tinh thể?).

Ngồi xuống, anh chờ đợi để chết.

Đó không phải là cái chết mà Ben mong muốn, mà chỉ là sự trốn chạy khỏi nỗi đau của cuộc sống. Anh đã tìm kiếm nó từ ngày bố của anh rời khỏi đời anh khi mới có 7 tuổi.

Anh đã bắt đầu với rượu vào năm 11 tuổi, sau đó chuyển sang ma tuý vào tuổi 13. Khi ma tuý không còn làm thoả mãn, anh gia nhập một câu lạc bộ xe máy bất hợp pháp, hy vọng rằng nó sẽ cho anh cảm giác an toàn và tình thân gia đình mà anh hằng mong muốn. Nhưng không được. Tìm kiếm để thay thế khoảng trống trong tim còn đưa đẩy Ben đến với nhiều ma tuý hơn, nhiều bạo lực hơn, và bị giam trong nhà tù tăm tối của tỉnh Louisiana.

Anh được thoát ra khỏi tù theo luật định. Nhưng anh không thoát ra được khỏi nỗi đau.

Trong khi giở lại các trang quá khứ tối tăm, anh nghĩ về người em trai của mình. Ba năm trước nó đã trở nên một người say mê Jê-sus. Bây giờ nó đang là mục sư một Hội thánh tại Louisiana. Lạ thật, anh thầm nghĩ. Ben ngước nhìn ra ngoài cửa sổ lên bầu trời xanh xứ Texas. Đã đến lúc người anh phải lạnh đi. Vậy mà thay vào đó anh còn ngồi đây quá là tỉnh táo… và quá là sống.

Nhưng quả thật là Ben chưa bao giờ dễ chết. Anh nhớ lại một lần có một người ném bom cháy vào ngôi nhà mà đang có anh trong đó. Anh bị u mê đến nỗi không tìm được đường ra. Lẽ ra anh đã bị thiêu cháy nếu như ông nội anh không đến kịp đó và kéo anh ra chỗ an toàn. Tất cả quần áo anh – tất cả ngoại trừ cổ áo phông và một ống tay áo – đều cháy trụi. Nhưng, thật lạ, lại chẳng có một vết bỏng nào trên thân thể anh.

Sau đó có lần khi việc buôn bán ma tuý đã trở nên tồi tệ anh đã bị săn đuổi và bị một xe ô-tô Lincoln Continetal đâm phải. Thêm vào đó nữa là những lần chính anh thấy mình nhìn lại những phát súng bắn trượt, và dễ thấy là cái chết như là không bắt nổi Ben Priest…

Tiếng chuông chói tai của điện thoại làm Ben giật nảy, ra khỏi giấc mộng ban ngày của mình. Anh chăm chú nghe khi một người phụ nữ có tên là Gloria, bạn của cậu em mình, bảo với anh là anh cần đến Hội thánh buổi sáng hôm đó.

Hội thánh? Có lẽ anh sắp xuống địa ngục thì đúng hơn.

"Xem này," anh nói với người phụ nữ, "tôi còn không biết Hội thánh ở đâu mà đến nữa."

"Tôi khuyên anh đến Hội thánh Lakewood tại Houston," cô ta nói. "Mục sư tên là Osteen."

Ben dặt ống nghe xuống và suy nghĩ về cú điện thoại. Ma tuý đang cần thời gian để làm công việc ngọt ngào của nó, thì sao lại không đi? Anh chẳng còn gì để mất nữa.

Bằng cách nào đó Ben cũng đến được Hội thánh. Anh đi vào sảnh đường nơi hội nhóm chật ních chỉ còn những chỗ đứng. "Anh có cần một chỗ ngồi không, người anh em?" một người phụ trách hướng dẫn chỗ ngồi hỏi.

"Đừng có gọi tôi là người anh em!" Ben cắt ngang. Người kia dẫn Ben đến một chỗ ngồi gần phía trước. Ben chăm chú lắng nghe bài giảng.

"Hãy cho Chúa Jê-sus một cơ hội chân thật để thay đổi đời bạn," người anh em Osteen giảng.

Đến cả Jê-sus bây giờ cũng không giúp được ta nữa rồi. Ta đã đi quá xa. Ben thoáng nghĩ.

Sau buổi nhóm, anh đi về nhà và dành cả buổi chiều để bơm đầy ma tuý vào lục phủ ngũ tạng mình. Nhưng thân thể anh vẫn không chịu chết.

Buổi tối hôm đó, Ben quay lại Hội thánh Lakewood. "Anh có cần một chỗ ngồi không, người anh em?" vẫn người đàn ông đó hỏi.

"Tôi đã bảo anh là đừng có gọi tôi là người anh em!" Và một lần nữa Ben lắng nghe bài giảng, vẫn biết rằng đối với anh đã quá muộn rồi.

Sau đó, anh bước ra bên ngoài Hội thánh và đứng bên lề đường. Anh có thể cảm thấy được ma tuý đang làm công việc báo tử cho anh. Sự hiện diện của cái chết thật không thể nhầm lẫn được. Nó đây rồi, Ben nghĩ.

Bỗng nhiên, anh quỳ sụp xuống trên hai đầu gối mình, và làm một điều mà anh không bao giờ nghĩ là mình có thể làm. Anh cầu nguyện. "Jê-sus, tôi không biết Ông là có thật như người ta nói không. Nhưng nếu Ông có, tôi dâng cho Ông cuộc đời tôi."

Ngay lập tức, một người hiện ra bên cạnh anh. Ben sợ không dám nhìn vào mặt người đó, những một cách nào đó không cần ai bảo cho mà anh biết chắc người đó chính là Jê-sus.

"Tôi thấy Ngài giơ tay ra để chạm vào tôi," Ben hồi tưởng lại. "Tay của Ngài đi vào bên trong ngực tôi và tôi cảm thấy có gì đó chuyển động. Bỗng nhiên tôi thấy mình… trong sạch. Tôi nhớ tất cả những lần tôi đã cố gắng tẩy rửa tội lỗi mình đi. Bây giờ, chỉ trong một khoảnh khắc chúng đã đi sạch.

"Sau đó Ngài đụng đến đầu tôi, và tay Ngài đi vào trong trí óc tôi. Tôi cảm thấy dường như mình bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng. Tất cả sự rối loạn đi hết. Suy nghĩ của tôi sáng sủa trở lại. Tôi thật bình an. Lần đầu tiên trong suốt bao nhiêu năm, trí óc tôi tỉnh táo."

Sau đó bất thình lình một làn sóng quyền năng bùng nổ suốt thân thể Ben. Anh tưởng rằng mình đang chết. Cố gắng thở lấy hơi, anh mở miệng mình ra để nói những lời cuối cùng – và thật ngạc nhiên làm sao, những âm phát ra là một thứ ngôn ngữ anh chưa hề nghe đến bao giờ.

Những giây kéo dài thành những phút mà thứ tiếng đó vẫn tiếp tục tuôn chảy. Nó thật là tuyệt vời! "Mỗi lần tôi hít vào, cảm tưởng như có một luồng điện chạy ra chạy vào trong phổi tôi," Ben giải thích.

Thay vì chết, Ben Priest mỗi lúc mỗi trở nên sống động hơn.

"Tôi thật hạnh phúc – nhưng vẫn còn không chắc chắn về điều đang diễn ra. Tôi đến cửa hàng bán đồ dùng gần nhất, và thử hỏi người phụ nữ sau quầy hàng xem cô ta có biết điều gì đã xảy ra với tôi không. Nhưng khi tôi nói, lại chính ngôn ngữ đó ra khỏi miệng tôi, và người phụ nữ ngã xuống sàn."

Ben nhìn xuống cô ta với sự ngạc nhiên khó hiểu. Anh không thể hiểu nổi tại sao cô ta ngã. Anh không nhận thức nổi rằng sự đụng chạm của anh với Jê-sus đã lưu lại quyền năng đang phát ra của Đức Chúa Trời.

Sợ là những người đi ngang qua có thể cho rằng anh đã tấn công người phụ nữ đó, Ben bỏ chạy ra khỏi cửa hàng và đến gặp người bạn mình, là một tay bạn buôn ma tuý. Nhưng anh ta cũng chẳng giúp gì được anh. Giống như cô gái trong cửa hàng, anh ta chỉ nhìn một cái vào Ben là ngã lăn xuống sàn.

Hoang mang, Ben bỏ đi và xuyên qua cả thành phố về nhà mẹ mình. Có thể bà sẽ giải thích được vụ việc bất thường này. Dù sao đi nữa thì thời gian cuối bà cũng có những hành động lạ lùng. Không chỉ một lần Ben nhìn ngoài cửa sổ và bắt gặp bà đang đi vòng quanh khu vực sở hữu của anh với quyển Kinh Thánh trong tay. Bà chỉ vào căn nhà của anh và tuyên bố, "Ma quỉ, mày không thể lấy được con của ta!"

Ben vẫn còn nói thứ tiếng lạ khi mẹ anh ra mở cửa. Anh không nói một từ tiếng Anh nào đã suốt hai giờ đồng hồ. Anh giơ tay ra để nắm lấy tay mẹ mình… và bà ngã xuống sàn. "Cậu kia, cậu có chuyện gì vậy?" Bố dượng của Ben gầm lên. "Cậu lại làm một đống ma tuý rồi đánh ngã mẹ mình phải không?" Ông ta xông qua căn phòng đến phía Ben, nhưng còn cách anh 10 feet nữa… thì ông cũng ngã xuống sàn.

Chính lúc đó điện thoại kêu vang. Ben trả lời vẫn trong tiếng lạ. "Ben!" anh nghe thấy người em mình nói, "Anh đã gặp Chúa!"

Thì ra là như vậy. Ben về nhà hôm đó thành một người khác hẳn.

"Cậu bạn buôn xuất hiện tại nhà tôi vào khoảng 2 hay 3 giờ sáng hôm đó," Ben nhớ lại. "Vào thời điểm anh ta bước qua ngưỡng cửa, tôi biết rằng đó không bao giờ còn là người anh em của tôi nữa. Anh ta mang đến một lô ma tuý. Tôi nói với anh ta là tôi đã được cứu và không cần đến chũng nữa. Tôi nhấc cả cái bàn cà-phê với tất cả thuốc phiện của chúng tôi trên đó và ném cả đống ra ngoài."

Và từ đó trở đi, Ben quay lưng lại với tất cả những gì mà anh từng biết. "Tôi đã mất hết chúng khi tôi đã gặp Jê-sus," anh nói vậy. "Tôi mất hết bạn, tôi mất hết của cải, tôi mất hết nguồn tài chính."

Ben cũng mất luôn một số điều khác nữa – quãng đời đau đớn và cô đơn. Thay vào đó, anh bắt gặp Một Người mà tình yêu thương Của Ngài đối với anh còn vượt quá mọi ước mơ ngông cuồng nhất. Và còn kinh ngạc hơn nữa,là anh khám phá ra rằng tình yêu thương đó vẫn có đó từ trước đến giờ.

"Tôi nhớ một lần tôi xuống thăm ông bà của mình," Ben nhớ lại. "Bà tôi mở tủ búp-phê của mình ra và lấy ra một túi nhỏ. Trong đó có những mẩu giấy và mảnh vải vụn. Bà trải chúng lên bàn, và tôi nhận ra đó là cổ và tay cái áo phông tôi mặc đêm bị cháy."

"Cháu yêu," bà nói, "Đức Chúa Trời Toàn năng đã can thiệp vào đời sống cháu để cứu sống cháu. Ngài có công việc để dành cho cháu làm." Sau đó bà lấy ra một cái lịch bị rách. Ông bà nội của anh đã đánh dấu trên đó những ngày và đêm mà Đức Chúa Trời đã đánh thức họ dậy để cầu nguyện cho Ben. Những ngày tháng đó đã kể lại câu chuyện riêng của mình. Anh đã được giải cứu khỏi cơn hoả hoạn như thế nào. Bởi phép lạ nào mà anh đã đẩy được cái xe ô-tô Lincoln Continental ra khỏi bụng mình và bỏ đi. Mỗi một sự giải cứu kỳ lạ đều có lời cầu nguyện đi trước.

Ben cố gắng đạt đến tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Là tình yêu thương mà đã theo anh hết năm này năm khác. Là tình yêu thương mà không bao giờ bỏ cuộc.

"Điều này có vẻ như không bình thường đối với tôi," Ben thú nhận. "Tình yêu thương thật sự chưa bao giờ là nguyên tắc sống của tôi cho đến thời điểm đó, nhưng tôi muốn thay đổi. Khoảng hai tuần sau khi tôi được cứu, Ken-nét Cóp-pơ-lan đến Hội thánh Lakewood để dạy một buổi hội thảo. Đề tài của ông nói là sự bước đi trong tình yêu thương. Sự dạy dỗ đó đã trở thành nền tảng đời sống tôi."

Ben rất vui sướng vì tình yêu của Chúa, anh kể với mọi người anh gặp. Anh có một quyển sổ ghi lại tên của mỗi con người đã tiếp nhận Jê-sus làm Chúa. Đến cuối tháng thứ tư, cuốn sổ của anh đã có 1000 cái tên.

Dù với thành công truyền giảng tin lành như vậy, mà Ben vẫn chưa cảm thấy mình đúng chỗ. Anh đã tốt nghiệp trường Kinh Thánh và được cấp bằng, nhưng dường như là anh vẫn chưa tìm được chỗ của mình trong thân thể Đấng Christ.

Chính xác là Đức Chúa Trời muốn anh làm điều gì?

Khoảng một năm sau khi anh được cứu, Ben đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi này.

"Một người phụ nữ bảo tôi rằng Đức Chúa Trời nói với bà trong một giấc mơ để bà tặng tôi một chiếc xe máy," anh kể lại.

Đó là chiếc xe Hạc-lây Đa-vi-sơn (Harley-Davison) cổ điển – đời 1950 Panhead màu da cam với những sọc đen. "Tôi đổ một can dầu máy vào chiếc xe đó và xức dầu nó cho Chúa. Tôi dâng nó như một chiến xa trong quân đội của Ngài. Trong sự tìm kiếm sự an toàn của một gia đình, tôi bây giờ là một phần trong một gia đình thực thụ với những anh chị em. Kinh Thánh gọi đó là Chi Phái Giu-đa."

Thế là đã hơn 16 năm từ khi Ben khởi đầu công vụ mình với Chi Phái Giu-đa. Mười sáu năm truyền giảng tin lành trong những cuộc đua xe máy và khắp các trại. Trong những năm đó, có những người muốn nghe tin lành Ben giảng, có những người khác lại không muốn.

Vừa cười, Ben vừa nhớ lại một người có tính cách thô lỗ, ông ta đòi anh phải để Jê-sus lại trong Hội thánh (ý nói không được đem Ngài đi giảng khắp nơi – ND), sau đó để thêm sức nặng cho đòi hỏi của mình, ông ta chĩa nòng súng vào mặt Ben. Thậm chí ông ta còn thử bóp cò, nhưng không làm nổi.

Ben thú nhận là anh cũng hơi bàng hoàng. Dù sao đi nữa, ra khỏi thân thể này là ta được về với sự hiện diện của Chúa, và ý nghĩ về chuyện được lên các tầng trời đã khiến trái tim anh cảm động.

Cuối cùng, sự vui sướng của khuôn mặt Ben đã khiến kẻ tội nhân cầm súng đó quỳ xuống ăn năn và ông ta đã được tái sanh.

Có vẻ như là các tầng trời còn phải đợi Ben Priest thêm một thời gian nữa. Anh chưa phải là đến lúc chết vào những ngày đó. Anh cùng với Jê-sus còn rất nhiều việc để sống và làm.

Do Melanie Hamry ghi lại. Hội truyền giáo Keneth Copeland, 1998

 

(Nguồn: ND – Q.H. Tinlanh.Ru)

Bài Viết Chọn Lọc

Bài Viết Được Quan Tâm

Bài Viết Liên Quan