9/ SUNDAR SINGH CHẾT? (1912)
Sáu người trong số bạn bè của Sundar nhận được điện tín cùng một ngày, phát xuất cùng một nguồn và người ký tên là Smith: “ Sundar đã ngủ yên trong Chúa!”
Lời lẽ này làm cho mọi người tin rằng Sundar Singh đã chết. Sau khi tìm hiểu các thánh nhân ẩn tu Maharishi và khám phá về những bí mật của hội truyền giáo Sannyasi, Sundar tìm đến Canon Sandys thuộc Calcutta, để mong được đi British Columbia. Có một kế hoạch gửi người Cơ đốc Ấn độ đến rao giảng cho 4,000 người Sikh đang sống bằng nghề gỗ tại đây. Ai có thể tốt hơn Sundar Singh, là một người Sikh đã từng đương đầu với những điều kiện gian lao khó khăn nhất? Dầu vậy chính phủ Canada cuối cùng từ chối cấp chiếu khán nhập cư và một lần nữa Sundar lại phải trở về Ấn độ.
Trên chuyến hành trình từ Calcutta về Bombay, Sundar nhớ lại lần trước cũng bị bác đơn xin đi Palestine và khi ông rời Bombay hướng về miền Bắc lòng ông tràn đầy ước mơ và ôm ấp giấc mơ ấy. Tại trường Cao đẳng St John ở Lahore, ông đã đọc đi đọc lại cuốn sách: “ Noi gương theo Ðấng Christ” của Kempis . Ðời sống của ông không phải là không thể giống Chúa. Con cáo và con chó rừng đều có hang để ở, nhưng Sundar giống như Chúa Jesus chẳng có chỗ mà gối đầu. Ông dứt khoát từ chối mang theo tiền, vì chính Chúa Jesus cũng bảo các sứ đồ Ngài làm như vậy. Sự bị chối bỏ, sự khổ nạn, sự đi lại rày đây mai đó phản ảnh chức vụ của Chúa Jesus tại Palestine. Lòng mong ước sâu đậm nhất của ông là cùng đồng chịu đau thương, thống khổ với Chúa Jesus Christ. Ý nghĩ này chiếm hữu ông cho đến nỗi những bạn thân của ông biết rằng ông rất thỏa lòng tử đạo vì Chúa. Một vài người còn tìm thấy nỗi buồn của ông khi ông đã trải qua tuổi ba mươi và bị bắt buộc phải sống lâu hơn Chúa của mình.
Khi Sundar đến gần Hardwar, một thành phố thánh của Ấn độ giáo gần Dehra Dun, Sadhu hợp với một người Anh cũng như ông đi về miền Bắc. Người ngoại quốc này cho biết mình là một y sĩ và bảo Sundar rằng ông đang trên con đường tiến đến tham gia vào giáo lệnh của tu viện Công giáo La Mã tại vùng Tây bắc. Cấp bằng y sĩ của ông có thể chẳng liên hệ với ngành thuốc. Một vài người sau này gặp lại ông, nhận biết ông là một thầy tu. Trong khi họ cùng đi đường, Sundar tiết lộ chương trình của mình.
Sundar nghĩ rằng như Thầy của mình, trước khi đi vào chức vụ phải kiêng ăn. Sự thiếu xót này, ông muốn bù đắp lại, mà cũng chẳng phải sự bắt buộc mù quáng về câu chuyện Chúa Jesus, nhưng để làm sống lại phần tâm linh và để tăng thêm sức lực cho ý thức về sự hiệp một của Ðức Chúa Trời. Người bạn đồng hành cố gắng thuyết phục ông đừng theo đuổi ý tưởng đó. Thật hiển nhiên rằng từ nhiều năm nay Sundar Singh đã tiêu hao quá nhiều sức lực và chẳng còn sức nào để chịu đựng nổi sự kiêng ăn bốn mươi ngày đêm như Chúa Jesus. Sundar từ chối nghe theo lời bàn và khi họ phân rẽ nhau, Sundar đi vào khu rừng rậm trải ra giữa Hardwar và Dehra Dun.
Sau đó vị “y sĩ” đó, người bạn đường, gửi sáu điện tín yêu cầu trưởng ty Bưu điện gần đó chuyển đi.
Họ công bố Sundar đã chết.
Ðược tin này các bạn của ông đều bàng hoàng. Những lời cáo phó xuất hiện trên các báo chí. Người ta bắt đầu lạc quyên lập quỹ cho việc kỷ niệm tại hai nơi Simla và Calcutta. Các buổi lễ tưởng niệm đã được tổ chức. Quốc gia Ấn như mất đi một người con thân yêu. Thư từ điện tín, điện thoại những lời thăm dò bủa ra tại Bưu điện nhưng thật ra chẳng tìm đâu được câu trả lời thỏa đáng. Mọi sự bàn tán cũng chỉ căn cứ vào mấy bức điện tín gởi từ Bưu điện do một người mặc áo choàng đen thanh nhã kia. Còn quá sớm để Sundar đến được Tây tạng và trong mọi trường hợp, các bạn bè đều biết chuyến hành trình của ông bắt đầu vào mùa hè. Nếu Sundar còn sống, ông có thể bày tỏ để các bạn bè đừng sốt ruột và ngăn ngừa báo chí ồn ào.
Ðột nhiên tin tức bay đến Dehra Dun.
Một vài nông dân, dọn đường ngang qua rừng để đốn tre tình cờ gặp được một người đàn ông nằm chết trên một con đường nhỏ. Họ làm một ổ rơm với các thanh tre làm cáng khiêng Sundar về một giáo khu Tin lành thuộc Annfield. Chẳng ai nhận ra con người có thân xác gầy còm tiều tụy đó cho đến khi tìm thấy cuốn Kinh Thánh Tân Ước có ghi tên Sundar Singh nằm trong túi áo cà sa vàng đã bạc màu.
Nhiều ngày qua Sundar được chăm sóc và sức khỏe trở lại bình phục, có thể nói năng và cho biết việc đã xảy ra làm sao. Bansi, cậu con trai của Mục sư Dharamjit, chăm chú nghe và lấy tin thông báo cho mọi người.
Sundar kể lại ông tìm được một nơi thuận tiện và ông biết rằng mình có thể sẽ không đếm được bao nhiêu ngày, nên ông đã dùng bốn mươi viên sỏi để cứ mỗi buổi sáng ném đi một viên. Thoạt tiên, trầm tư thật dễ dàng, rồi những ngày trôi qua, sự yếu sức bao phủ làm mờ tâm trí. Các cảm giác về sinh lý không còn nhạy bén nữa, trong khi tri thức thuộc linh hoạt động mạnh mẽ, một cảm giác bình an và phước hạnh tuyệt diệu xâm chiếm tâm hồn ông. Tuy nhiên cơ quan thính giác của ông bị ảnh hưởng mà mắt ông lại sáng hơn. Những thú rừng đến đánh mùi hôi người ông ngay cả một con báo cũng đến ngồi nghỉ bên cạnh chỗ nằm của Sundar mà chẳng làm hại chút gì. Ông trở nên quá yếu không còn sức để ném các viên sỏi qua một bên. Rồi một ngày, tất cả đều tối tăm.
Không ai biết Sundar đã kiêng ăn trong bao nhiêu ngày. Ngay cả chính ông cũng không nhớ nữa. Các bác nông phu đã không quan tâm nhận diện bao nhiêu hòn sỏi còn lại khi bắt gặp ông nằm ngất xỉu. Chắn chắn không được bốn mươi ngày. Có thể ngắn hơn, tuy nhiên Sundar Singh luôn luôn xác nhận sự hoàn toàn cô lập và sự thấm thấu vào Thần Linh của Ðức Chúa Trời. Tất cả làm sáng tỏ bao nhiêu nghi ngờ và đem lại cho ông một năng lực mới trọn đời.
Sundar chỉ mới hai mươi bốn tuổi, còn trẻ để quay về để được ca tụng và nhận mọi phúc lợi do thế giới Tây phương hay Ấn độ đem tới. Nhưng Sundar không thay đổi con người tu sĩ đơn giản hành khất, khiêm nhường và khôn ngoan để biết rằng sự kiêng ăn có thể đã đạt được vài mục đích mà Sundar đã định tâm tìm kiếm.
Ông bình phục nhanh chóng vì ông có một thể chất đặc biệt. Trước tháng Ba, ông đã dự tính một chuyến hành trình hằng năm qua Tây tạng.
Khác với mọi lần, năm nay có nhiều chuyện lạ khác làm cho các bạn bè ông bối rối. Từ ngày ông băng qua những dãy núi, có nhiều điều đáng lo xảy ra. Dân làng từ chối tiếp đón Sundar. Ông như bị chìm trong sông băng giá chảy xiết. Thực phẩm thì khan hiếm. Ông bị ném đá và bị đối xử tồi tệ. Các đạo sư Larma và những thầy tư tế để cho dân chúng được tự do khủng bố. Ðiều này chứng minh rằng câu nói: “ rao giảng Phúc âm ở Tây tạng đồng nghĩa với sự chết” càng trở nên rõ ràng hơn . Tuy nhiên sự chết đối với ông không phải là mối kinh hãi vì ông đã nhiều lần sắp chết và thoát chết.
Cuộc hành trình thảm khốc lên đến cực điểm tại thành phố có tên là Razar, một vùng hỗn độn với những căn nhà tồi tàn dơ bẩn và một tu viện có tường cao, kiên cố ngự trị. Sundar khởi sự rao giảng tại khu chợ trời, tối đến ngủ tại một Serai công cộng, một khu đất không có mái che, nơi dành cho các lái buôn và gia súc cùng trọ với nhau qua đêm cho ấm. Tin tức về sự giảng đạo của Sundar đầu tiên lôi kéo đám đông chú ý nhưng sau một thời gian ngắn tin đó đến tận Larma Trưởng khiến vị đạo sư này giận dữ vừa sợ hãi lẫn lộn.
Vào một buổi sáng, người lính của tu viện chạy đến đám đông, túm lấy Sundar kéo ông đến một phiên tòa. Larma ngồi trong một phòng rộng lớn, các thầy tu mê tín khác vây quanh. Có nhiều mặt nạ hình quỷ thần treo trên tường nhìn xuống. Sundar biết vụ án chỉ có một kết thúc. Hung ác là cái nhãn hiệu của người Tây Tạng, bằng mọi cách, mọi giá phải áp đảo cho đối phương sợ, các thể thức hành hình đều được minh họa rõ tinh thần tôn giáo của họ.
Vụ xử án trở thành vụ hành quyết bằng một trong hai cách: Tử tội bị quấn chặt trong một mảnh da thú tươi và ướt rồi cho đem phơi nắng. Sức nóng của mặt trời làm co rút tấm da và siết chết người bên trong một cách đau đớn chậm rãi . Cách thứ hai là tử tội bị ném vào một cái giếng sâu không nước đã có sẳn một số xác người dưới đáy bị ném xuống trước đây. Tự nhiên kẻ bị ném xuống giếng sẽ chết vì đói khát và nhiễm độc.
Sundar bi họ lôi đến một cái giếng, nắp giếng được mở ra. Sau khi bị đám đông cho nhiều trận đòn: họ đánh đấm cho đến khi rớt xuống giếng sâu. Rồi tiếng chìa khóa trong ổ khóa nghe kót két và nắp giếng đóng kín lại. Mùi hôi thúi tại nơi ghê tởm này làm Sundar buồn nôn. Nơi đây chất chứa xương thịt của những người đã chết hay vừa chết đang tan rữa ra. Sundar cầu nguyện một cách tuyệt vọng cho một sự giải cứu.
Sự giải cứu sẽ đến như thế nào, ông không có ý kiến. Một cánh tay bị gãy, vả lại cũng chẳng có cách nào để leo lên miệng giếng. Dù có thể trèo lên được, ông cũng không thể ra khỏi miệng giếng được vì chính Larma Trưởng đã lấy chiếc chìa khóa cất dấu kỹ ở đai nịt kêu leng keng dưới áo của ông.
Giờ trôi qua và ngày qua ngày. Ðã ba ngày ba đêm trôi qua trong nơi tối om hôi hám không khí không chịu nổi ngột ngạt nặng mùi tử khí. Thình lình có tiếng động trên miệng giếng. Tiếng chìa khóa trong ổ khóa và nắp giếng được mở ra nghe cọt kẹt vì bản lề bị ten rỉ lâu rồi. Chốc lát sau, một sợi giây thòng xuống chạm vào mặt Sundar. Ở đầu giây có một cái vòng. Ông xỏ hai chân vào tròng, choàng mình vào, nắm chặc lấy sợi dây và nhận biết được kéo lên một cách chậm rãi. Lên đến trên, ông ngã lăn ra trên đất và hít thở khí trời trong lành của đêm hôm thanh tịnh. Nhưng khi ông nhìn quanh, ông chẳng thấy người giải cứu mình đâu cả.
Sundar, người tu sĩ áo cà sa vàng đau đớn vì các vết thương chậm chạp bò đến Serai công cộng không mái che để ráng nghỉ qua đêm. Trời vừa sáng, ông tìm cách tắm gội cho hết mùi hôi hám dính vào áo, rồi trở lại khu chợ trời giảng đạo.
Một tiếng đồng hồ sau, một số thầy tu hung hăng kéo đến tràn vào khu chợ nhỏ xíu đó, bắt Sundar một lần nữa, xô đẩy ông qua đám dân bối rối hoang mang tiến thẳng về tu viện. Sundar lại đứng trong phòng lạnh ngắt như lần rồi trong khi Larma trưởng cứ chất vấn đi đi lại lại. Ai đã giúp ông trốn thoát? Người giúp là đàn ông hay đàn bà? Làm sao họ lấy được chìa khóa? Dĩ nhiên câu hỏi chính là : Làm sao chúng lấy được cái chìa khóa và nó bây giờ đâu rồi? Chỉ có một cái chìa khóa duy nhất cho cái giếng mà Larma trưởng giữ mà thôi. Larma trưởng kéo vạt áo lên, đứng thẳng dậy và lôi chùm chìa khóa đeo bên hông của ông.
“Chỉ có một chìa khóa duy nhất cho cái giếng mà thôi. Nó phải ở đây. Ai ăn cắp để thả anh? làm cách nào ?”
Larma có dáng người Mông cổ bỗng nhiên có vẻ bí hiểm. Ông ta trở nên hung dữ đối với các thầy tu đang đứng chờ nhưng trong lòng ông sợ sệt.
“Kéo người này đi đi… Kéo nó ra xa khỏi thành phố… Thả nó đi…và đừng bao giờ cho nó bén mảng tới Raza nữa!”
Chiếc chìa khóa của cái giếng vẫn còn nằm y nguyên trong chùm chìa khóa của ông.
10/ THÀNH TRÌ PHẬT GIÁO ( 1914-1918)
Tây tạng không phải là quốc gia duy nhất nguy hiểm và cấm giảng Phúc Âm. Sundar Singh, một con người mạo hiểm, đã tìm kiếm khắp nơi. Tờ tường trình về một bộ lạc không hiếu khách, một biên giới ngăn chận hay một nước mà đạo cứu rỗi của Chúa Giê su Christ chưa được rao giảng đối với ông là một thách thức không thể lẩn tránh được. Sundar tin tưởng rằng Ðức Chúa Trời sai phái ông tới những chỗ không ai có thể đến gần được, nơi mà các nhà truyền bá Phúc âm khó xâm nhập vào được. Chính Chúa sẽ chăm sóc ông. Ý thức được điều này, có nghĩa là Ðức Chúa Trời sẽ cho ông sự can đảm, khả năng chịu đựng và lòng bình an. Ðiều đó không có nghĩa là ông sẽ tránh khỏi khó khăn ngay cả sự chết nữa.
Ông thường bảo: “Chúa Jesus phán cùng chúng ta rằng môn đồ thì không hơn Thầy, sứ giả không thể hơn người sai mình” ( Giăng 13:16) Khi chúng ta từ giã cõi đời này, chúng ta không còn cơ hội thứ hai mang thập tự giá của Ngài. Vì vậy, chúng ta hãy mang nó với tất cả tấm lòng vui mừng ngay bây giờ ”.
Ông thường đối diện với sự chết. Những dấu chân hiên ngang của ông qua các vùng rừng rú trong các hang động và tại các túp lều bỏ hoang nơi ông làm bạn với các thú rừng. Thiên tai đe dọa, tuyết giá,băng trụt của Hy mã lạp sơn có thể cầm chân ông lại tại Tây tạng. Sundar bình thản cho biết rằng ông chẳng bao giờ sợ sệt khi các điều này xảy đến.
“Thật dễ chết cho Chúa. Nhưng rất khó sống cho Ngài” Ông tâm sự với bạn bè.
Thật ra sự chết khó mà chiếm hữu ông cách dễ dàng trong đời sống lúc bấy giờ trừ khi nó đến bất ngờ. Sundar cao 1.83m ( 6 feet) với vóc dáng phương phi. Sự lưu hành trường kỳ của ông vào đủ các loại thời tiết đã làm cho thể xác ông cứng cáp hơn và ánh sáng rạng rỡ sâu thẳm trong đáy mắt màu nâu của ông như ngọn lửa không bao giờ tàn, ngụt cháy trong tâm linh. Ông cậy dựa rất ít vào thực phẩm và thuốc men vì ông đã từng học được những huyền bí của rừng rú của những người đã từng sống trong đó mà chẳng cần đến những xa hoa. Sức chịu đựng của ông thật kinh khủng. Ông được hướng dẫn bởi sự đam mê ấy cho việc phục vụ Chúa của ông. Thật khó có thể tưởng tượng nổi nếu không phải là Sundar Singh thì chẳng ai có thể sống được như vậy. Tuy nhiên chẳng có sự náo nhiệt, cũng không có sự vẻ vang nào về ông. Sự can đảm, sức mạnh của ông được dùng trong thế cân bằng với những lúc trời quang mây tạnh.
Sự thanh tịnh của tâm hồn ông, hay vui cười và đặc biệt thường đáp ứng lúc cần vui với những người chung quanh. Tình trạng tiến hay thối của ông cũng phát xuất từ bản tánh tự nhiên và qua lối sống hằng ngày. Tất cả điều đó làm cho nhiều người kết luận rằng: “ Sundar có nhiều điều giống Chúa Jesus hơn bất cứ một người nào mà chúng ta từng quen biết”. Họ khám phá rằng sự mầu nhiệm nằm phía sau những đặc tính ưu tú này là những điều đến từ Chúa Jesus san sẻ qua ông. Giống như chủ của mình, ông biết về giá trị, nhu cầu thiết yếu về sự lặng thinh và trầm tư.
Rời Kotgarh, ông lên vùng cao nguyên và bặt tăm đôi ngày. Khi nào ở chung với các bạn tại những nơi bận rộn, ông thường lén đi riêng ra xa một lúc, không để ai quan tâm đến mình. Ông ít khi trầm tư trọn cả ngày vì là một người lưu hành đó đây không cho phép ông có những thói quen thường xuyên. Dầu vậy, ngay trong khi một mình đi bộ là lúc ông có cơ hội để trầm tư tĩnh nguyện.
Ông hay có thói quen dậy sớm đọc một chương trong Kinh Thánh. Sundar ít khi tỏ ra một cách công khai đời sống tin kính của mình, dù rằng các bài thuyết giảng của ông là kết quả của sự trầm tư và cầu nguyện. Sundar là một con người luôn luôn cởi mở với tất cả bạn bè.
“Dậy sớm, tôi khởi sự đọc một chương trong Thánh Kinh. Tôi ghi chú vào tâm trí những câu gợi ý”. Sundar giải thích cho bạn về phương cách trầm tư của mình. “ Rồi khi tôi lặng lẽ đọc trọn chương, tôi trở lại từng câu và suy gẫm lời Chúa, từng câu một. Sau khi rút tỉa hết mọi điều mà Chúa muốn truyền cho tôi qua những câu Kinh Thánh này, lúc bấy giờ tôi dùng chừng mười lăm phút “ tập trung tư tưởng” cho lời cầu nguyện”.
“Tôi không có một tư thế đặc biệt nào cho sự cầu nguyện. Tôi có thể ngồi, hoặc quỳ hay đứng. Tôi không dùng lời nói. Tôi chỉ nghĩ về những điều mà tôi vừa đọc, về những điều tôi đã làm, về những điều tôi định làm, về những người tôi biết, về chính tôi và về Chúa Jesus. Những tưởng nghĩ đó là lời cầu nguyện của tôi”.
Giữa Ấn độ và Tây tạng là những chỏm núi cao ngất của dãy Hy mã lạp sơn, từ cao nguyên Simla trải dài cả trăm dặm đến Assam, có những đồi và thung lũng thuộc những tiểu quốc Garhwal, Bhutan, Nepal và Sikkim. Trong vùng những biên giới đó, có những cảnh trí tuyệt diệu nhất thế giới. Những thung lũng phì nhiêu lượn xoắn vòng: bên dưới bờ rừng cao nguyên, trên cao là những chỏm núi nhọn hoắt của dãy núi cao nhất thế giới. Qua những cánh rừng và dọc theo những sườn đồi quanh năm tuyết phủ, đó là con đường mòn chật hẹp và nguy hiểm dẫn đến Tây tạng. Sadhu Sundar dùng con đường mòn này làm con đường thay đổi dẫn từ Kotgarh, vì ông đã trở nên một nhân vật có tiếng tăm trên những con đường biên giới. Nhiều người Tây tạng cũng đã muốn ngăn chặn ông vĩnh viễn ở ngoài quốc gia họ bất cứ khi nào họ có thể làm được. Cả hai con đường dẫn đến Tây tạng và những chuyến đi đặc biệt, Sundar đi giảng đạo ngang qua những thành trì kiên cố của Phật giáo.
Biết bao nhiêu chuyện có thể kể lại về những cuộc hành trình thách thức với sự chết.
Tại Kantzi, khi đang rao giảng tại chợ trời, Sadhu Sundar bị đám đông giận dữ tấn công tới tấp, đánh cho đến bất tỉnh mới thôi. Họ nhặt thân xác mềm nhũn của ông rồi bó tròn với cái mềm. Số người tụ tập ở chợ trời mỗi lúc một đông hơn la ó ồn ào. Tất cả chen lấn muốn nhìn cho được mặt của thánh nhân áo vàng, người đã bạo gan xâm nhập vào xứ họ mà giảng Tin lành, một thứ đạo ngoại quốc. Cuối cùng họ léo nạn nhân ra khỏi thành. Họ kéo xác ông vào rừng. Những người Mông cổ mập lùn đứng nhìn đám người hành quyết Sundar. Chẳng còn lối trốn thoát nào cả. Họ vấn tròn và cột chặt cái mềm một lần nữa như liệm xác cho ông. Ðoàn dân mong cho có đỉa, bò cạp, rắn chui vào cái thân xác bầm dập trong cái mềm đó để hút máu hay cắn rứt cho chết. Chắc chắn có những con báo đang lang thang tìm mồi đêm nay…
Sadhu Sundar buông xuôi, dần dần hồi tỉnh, chẳng biết mình đang ở đâu. Các vết thương đau nhức, miệng khô khan. Ông tìm cách duỗi thẳng chân tay nhưng không cọ quậy được. Trên những cành cây cao, ông thấy những chùm trái cây chín ngon ngọt treo lửng lơ, chờ bàn tay đến hái. Ông giựt mình thấy đau nhức trên chân vì có con bò cạp bò qua. Không xa, có tiếng gầm của con báo rừng. Ông tưởng nhớ lại những khuông mặt hung dữ của đoàn dân và các thầy tu khi thấy con người mặc áo cà sa vàng mà giảng Phúc âm của Chúa Jesus. Sundar bất tỉnh trở lại.
Lúc sau, ông tỉnh lại ông nhận biết có người đang rửa mặt cho mình. ông duỗi thẳng tay và cảm thấy được thong thả. Những trái cây treo lơ lửng trên cành mấy giờ trước đó thật kỳ diệu thay đang ở trong tay ông từ lúc nào. Các vết thương đã được băng bó. Tiếng gầm của thú rừng văng vẳng đàng xa, chung quanh đó đây trong rừng, ông nghe có tiếng giao động. Trong bóng tối mập mờ, thật là khó khăn nhận diện được hai người đang đứng gần ông. Họ là những cái bóng không hơn không kém, khi họ đưa ông qua nơi an toàn bên kia bờ rừng. Chắc họ là những thiên sứ! Thật vậy, ông vẫn nghĩ thế, họ như được Ðức Chúa Trời sai đến. Chắc họ đã giãi phóng cho ông một cách kỳ diệu. Nhưng ông biết họ là ai vì họ đã nói nhỏ vào tai ông trước khi từ giả. “ Chúng tôi là những tín đồ bí mật, hội viên của Hội truyền giáo Sannyasi ”.
Dạo nọ tại Srinagar thuộc Garhwal, một nhóm thanh niên trẻ tuổi hung hăng khủng bố ông bằng cách đưa một học giả Ấn độ đến để đối chất Sundar về giáo lý vừa được rao giảng. Chính học giả này lại gia nhập vào Hội Truyền Giáo ấy và xác nhận cũng sẵn sàng đứng chung với Sundar để rao giảng Phúc âm cho mọi người muốn nghe.
“Ðã có nhiều người như chúng tôi, Thầy biết không, Sadhufi ( Thầy thân mến), vị học giả xác nhận. Họ là những tín đồ bí mật, hội viên của Hội Truyền giáo Sannyasi mà Thầy đã từng gặp ở Benares, lúc dọn đường cho Chúa.”
Họ chuyện trò với nhau và cùng tâm tình với những người có cảm tình cho đến trăng lên. Hội truyền giáo Sannyasi cũng cứu sống Sundar tại Gurkka thủ đô Nepal, nơi Phật giáo có một lực lượng hùng hậu trên những dãy đồi núi và thung lũng lố nhố những đền miếu, có một vài nơi thờ phượng rất thiêng liêng và có vài nơi khác có tiếng là thờ quỷ, thoái hóa như bên Tây tạng.
Các ngọn Everest và Kanchinjunga vượt lên trên không trung cao hơn cả thành phố Ghum nho nhỏ. Ðây là một nơi Sundar đã rời người bạn Tây tạng Tharchin để tiến vào vùng đất cấm: làng Ibom.
Sau khi đến đây vài ngày, nhiều khốn đốn đã xảy ra không thể nào ngờ được. Ðầu tiên, Sundar bị bắt bỏ vào tù, nhưng chính là kinh nghiệm đem lại cho ông tràn đầy niềm tin vui mừng- vui mừng vì chịu khổ vì Chúa Jesus. Trên cuốn Tân Ước, chữ Urdu , ông viết: “ Sự hiện diện của Ðấng Christ đã biến đổi cảnh lao tù của tôi thành ra nơi thiên đàng phước hạnh. Có cái gì giống thiên đàng bằng chính nó!” Sundar vui mừng đến nỗi ông ca hát và rao giảng thâu đêm qua cửa sổ nhỏ xiú của cái phòng giam đầy bọ chét. Ðám đông trong khu chợ trời miễn cưỡng lắng nghe. Lời ông theo sát họ khi họ đi ngang qua phòng giam. Biến cố này xảy ra làm cho nhà cầm quyền bối rối. Quan Tòa triệu tập lính gác cấp tốc. Họ đột nhiên vào phòng giam lôi Sundar ra, kéo đến sân tòa án. Họ ném Sundar trên tấm ván nhám sì rồi bắt đầu cột chặt ông vào tấm ván đó, cũng cách xử giống như xử các tù nhân Tây Phương bị cột vào các đòn cây. Cánh tay ông bị kéo thẳng lên trên đầu và người ta cột thật chặc các bàn tay vào tấm gỗ rồi đưa về lại chỗ cũ. Một trong những người lính mở cửa trại tù và ném cái khung gỗ có Sundar bị cột tay chân ra giữa chợ. Trời nắng như thiêu đốt. Tội nhân phải chịu sức nóng mặt trời, đói khát, đau nhức vì những vết thương trên người.
Ðám đông vừa la hét như điên loạn vừa đấm đá vào thân xác ông đang nửa sống nửa chết đang bị cột chặc vào khuôn gỗ. Họ yên lặng khi Sundar bắt đầu hát khen ngợi Chúa Jesus. Những thầy tu và lính gác say máu độc ác ném cả đỉa- loại đỉa hút máu người và súc vật- trên thân xác nằm sải dài của tù nhân. Người ta yên lặng ngắm nhìn những con đỉa bò vào thân trần trụi của Sundar hút máu, rứt rỉa dưới làn da thịt đang run rẩy. Chân tay và thân thể bể gãy khắp nơi sưng lên và máu me tràn ra dưới ánh mặt trời.
Sundar không ngừng ca hát và rao giảng về hạnh phước theo Chúa. Ðoàn dân lắng nghe với vẻ hoài nghi. Ông lại bất tỉnh khi bị họ kéo xốc xếch vào rừng bên kia thành phố ném vào đống rác phế thải cho chết.
Ðêm hôm ấy, từ trong số năm bảy nhà, có những cái bóng di chuyển trong đêm trăng mờ. Những nguời nam nữ kéo đến cứu, mở ông ra khỏi khuông gỗ, băng bó các vết thương và đưa ông đến chỗ an toàn. Một lần nữa, Sundar kể lại cho Tharchin khi lảo đảo đi vào Ghum. Những người cứu mạng ông lại là những Cơ đốc nhân thuộc Hội truyền giáo Sannyasi.