Oneway.vn – Vào thế chiến thứ Hai! Jacob là một người Do Thái, và cũng là một chuyên gia tài giỏi, anh khá giàu có, nên cưới được một vợ người Đức và hai người sanh được đứa con trai.
Thời điểm ấy, Đức Quốc Xã đang truy tầm người Do thái để thủ tiêu. Nhưng Jacob chủ quan, cho rằng nhờ có vợ mình là người Đức, Jacop sẽ không bị bắt và đẩy vào trại tập trung như những người Do Thái khác.
Một ngày kia đang từ sở làm về nhà, bọn mật vụ Đức chực sẵn trước sân bắt trói Jacob dẫn đi mà không cho anh từ biệt người vợ của mình.
Một tên mật vụ còn cười ngạo nghễ, rồi nói rằng:
-“Mầy thật là ngu ngốc, mầy không biết chính vợ mầy đã tố cáo mầy sao!”
-“Ông nói láo, vợ tôi không bao giờ làm điều đó!” – Jacop đáp lại
Nhưng một tên mật vụ Đức khác nói:
– “Chứ mầy không biết vợ mầy đã tư tình với ông cảnh sát trưởng vùng này sao?”
Jacob quay lại nhìn vợ mình với đôi mắt kinh hoàng. Nhưng nàng chẳng dám nhìn về phía chồng.
Jacob bị đọa đày trong trại tù suốt 5 năm. Có những lúc ông gần kề với cái chết, tưởng chừng không thể vượt qua. Dẫu sống trong ngục tù khổ sai nhưng Jacob quyết không đánh mất niềm hy vọng. Sự cay đắng và thất vọng ê chề lúc nào cũng đầy ắp trong tư tưởng nhưng Jacob lúc nào cũng mong sao mình được sống.
Ánh sáng hy vọng lại lóe lên ở cuối đường hầm, khi Jacob nghe tin cho biết rằng ông sẽ sớm được ra khỏi trại tù, như thế ông có thể gặp lại đứa con trai, và cha con sẽ được đoàn tụ.
Thế chiến thứ hai chấm dứt ngoài sự tưởng tượng, Jacob được trả tự do. Lòng ông nôn nao mong được gặp lại đứa con. Nhưng khi về đến nhà, người hàng xóm cho biết vợ và đứa trai yêu quý của ông đã bỏ đi mấy năm rồi, có thể là họ đã đi đến Bắc Âu. Không gặp lại đứa con, Jacob đã tiêu tan hết niềm hy vọng. Sức khỏe ông yếu dần, thân hình tiều tụy với khuôn mặt sầu khổ.
Trong túi chẳng có một đồng xu nào, bụng đói chân run, Jacob lang thang trong công viên, ngã mình trên ghế đá nơi những kẻ vô gia cư làm chốn nương thân. Với lòng tự trọng, Jacop không muốn nương dựa vào lòng thương hại của kẻ khác, nhưng khi bị dồn vào đường cùng, Jacob cũng phải ngửa tay ăn xin những người đi qua đường.
Sau đó không lâu, Jacob bị cảnh sát bắt, thế nhưng nhờ bị tống giam vào ngục mà Jacob lại được nơi ăn uống ngủ nghỉ đàng hoàng hơn ngoài phố. Khi cảnh sát điều tra, họ biết Jacob còn một người anh ruột còn sống ở thủ đô Tel Aviv. Chính quyền lúc bấy giờ cho ông một vé máy bay để trở về cố hương làm lại cuộc đời.
Khi về đến Do Thái, Jacob không còn một xu dính túi, ông phải nhịn đói suốt cả một tuần lễ. Dầu vậy ông cố lê những bước chân yếu ớt của mình tìm đến nhà của người anh.
Oái ăm thay! Sau nhiều năm không gặp mặt đáng lẽ người anh phải vồn vả đón mừng đứa em tưởng chừng đã chết trở về, ngược lại anh ấy lại lạnh lùng, hờ hững với Jacob.
Dù biết đây là em mình, nhưng anh ta giả vờ như người xa lạ cho rằng Jacob là kẻ bần hàn thấy người sang bắt quàng làm họ, yêu cầu Jacob phải cho xem giấy tờ.
Quá đớn đau, nhục nhã trước tình đời đen bạc, xem nhẹ cả cốt nhục tình thâm của người anh, Jacob không màng xuất trình giấy tờ tùy thân cho anh xem nữa, mà quyết định bỏ đi để tìm cái chết cho quên hết sự đời.
Jacob lại thơ thẩn bước vào công viên, buông mình xuống băng ghế. Lần nầy Jacob nhất định sẽ không ăn mày như lúc trước mà âm thầm nhịn đói cho đến chết.
Vài ngày trôi qua, đang khi nằm thoi thóp trên ghế đá công viên, ông thấy một cô bé trong bộ áo màu vàng đến gần mình. Jacob nghĩ chắc cô bé nầy vào công viên xem phong cảnh, nên nhắm nghiền đôi mắt lại chẳng buồn quan tâm đến ai hết.
Thình lình ông nghe một tiếng nói nhỏ nhẹ. Jacob mở mắt ra và ngạc nhiên trước ánh mắt đầy nhân từ và trìu mến của cô bé lạ mặt.
Lần đầu tiên sau 6 năm, Jacob nhìn thấy khuôn mặt dịu hiền và lời nói ân hậu. Jacob mở lời, sau khi nghe câu thăm hỏi ân cần của cô bé:
-“Chứ cháu muốn gì ở nơi ta?
Cô bé nhỏ nhẹ đáp:
-“Thật ra cháu không muốn vào công viên nầy. Nhưng khi xe bus thình lình dừng lại, cháu bước vội rời khỏi xe, thì mới nhận ra là mình đã lầm chổ trạm mà mình định xuống.
Cháu tính lên xe một bus khác để đi tiếp, nhưng bổng nhìn thấy ông ngồi có vẻ buồn thảm, lo lắng, nên con không nỡ bỏ đi, trước khi cháu nói được vài lời với ông !”
-“Cháu nên lên xe bus lại đi. Cứ để mặc tôi ở đây!” Jacob gay gắt nói.
“Thưa ông, thoạt đầu cháu hơi sợ khi đến gần ông, nhưng cháu cảm nhận tiếng của Chúa phán bảo là cháu phải nói với ông một điều. Và điều cần nói là Chúa Jêsus rất yêu thương ông! Ngài thực sự yêu ông, ông ạ!”
Jacob nhìn cô bé với vẻ nghi ngờ. Nhưng cô bé tiếp tục cho ông biết rằng ở trần gian nầy có lắm đau khổ và cô độc, nhưng có một Đấng luôn yêu thương, Ngài đã thương yêu cháu và Ngài đã đến tìm và cứu cháu!
Rồi trong nước mắt, cô bé tiếp tục nói chuyện với ông bằng cả tấm lòng trìu mến. Đến đây Jacob nghẹn ngào đáp:
-“Cháu bé ơi ! Chẳng có ai yêu thương ta cả và với ta giờ đây mọi thứ có lẽ đã trễ rồi, quá trễ cho ta rồi cháu à!”
-“Dạ thưa ông, không! Chưa trễ đâu ông ạ!
Cô bé đưa tay ra, nắm lấy bàn tay gầy guộc của Jacob:
-“Chắc chắn không trễ đâu ông ơi! Chúa đang yêu ông và Ngài bảo cháu tìm đến với ông, chỉ cần ông mời Chúa ngự vào lòng, thì Ngài sẽ yêu mến và chăm sóc ông”.
Ngay lúc đó Jacob cảm thận được tình yêu của Chúa như đang đụng chạm sâu vào tâm khảm của mình, qua tấm lòng chân thành của cô bé. Ông không thể nào tưởng tượng ra Chúa lại đưa đến cho mình một sứ giả nhỏ bé, nhưng kỳ diệu đến thế.
Jacop nhận biết nơi sâu thẳm của lòng rằng đang có một sự trợ giúp kịp thời trong giây phút chót của cuộc đời mình. Nên Jacob đã quyết định tiếp nhận Chúa Cứu Thế và xin Ngài ngự trị tâm hồn.
Jacob lập lại lời cầu nguyện theo sự hướng dẫn của cô bé tại một ghế đá công viên vắng lặng. Cầu nguyện xong Jacob còn muốn nói thêm với Chúa lời cầu nguyện theo tiếng mẹ đẻ của mình. Sau đó Jacob nói với cô bé:
-“Cám ơn cháu nhiều lắm nhen! Vì cháu đã mang đến cho ta điều kỳ diệu mà từ trước đến nay ta chưa hề có sự cảm nhận ấy! Giờ đây ta cảm thấy dễ chịu rồi, dẫu rằng bệnh tình ta quá nặng, sức ta không còn nữa, chắc ta sắp đi vào cõi chết rồi”.
Nhưng cô bé đã vội đi tìm các bạn, rồi nhờ các bạn dìu Jacob lên xe bus đem về nơi cô tạm trú. Nhờ sự tận tình chăm sóc của y tá, dần dà Jacob bình phục lại.
Suốt một năm chăm sóc, Jacob được cô bé và các bạn mình nói về tình yêu của Chúa Jêsus, Ngài chính là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái và cho cả nhân loại.
Thỉnh thoảng các bạn trẻ họp nhau lại đọc Thánh Kinh cho Jacob nghe rồi cùng Jacob cầu nguyện. Chúa đã truyền sự sống từ trời cho một kẻ sắp chết, Ngài đã thắp sáng lại ngọn đèn sắp tắt, Ngài phục hồi lại cây sậy đã giập.
Jacob xin Chúa ngự vào lòng mình, phó thác đời sống và linh hồn cho Chúa Jêsus là Đấng Messiah, là Vị Cứu Tinh của Dân tộc Do thái và của mọi người.
Ông kịp thời tiếp nhận Chúa ở vào độ tuổi thứ năm mươi. Sau đó ông tìm việc làm, mua được một thẻ bảo hiểm, và với tấm lòng thay đổi, Jacob tha thứ cho người anh bạc tình, trở lại làm hòa với anh mình, tình cảm anh em đã phục hồi và họ trở lại thân mật với nhau.
Chúa Jêsus tha thiết yêu bạn. Ngài đến trần gian để tìm kiếm bạn thông qua những người đã trải nghiệm được tình yêu của Ngài. Như Lời Kinh thánh Lu-ca 19:10 chép: “BỞI CON NGƯỜI ĐÃ ĐẾN TÌM VÀ CỨU KẺ BỊ HƯ MẤT”.
Nguồn:https://oneway.vn