Từ Vực Sâu Lên Chốn Cao

Share

Lời Giới Thiệu

   Hoa Hồng đẹp và kiêu sa trong gai góc của thân mình, cây xương rồng vẫn vươn mình với sức sống mãnh liệt giữa sa mạc khô cằn hoặc bông hoa dại bên đường vẫn nứt mình luồn lách qua khe đá để hướng mình về sự sống … là những hình ảnh mà tôi mường tượng ngẫm nghĩ về cuộc đời của cô Diane.

   Tôi may mắn tình cờ được biết đến cô tại Pháp, cái thời sinh viên bơ vơ lạc lõng nơi đất khách quê người. Cuộc đời cô đầy thăng trầm trong nước mắt và những thăng trầm này là sức mạnh vô hình được Đức Chúa Trời sử dụng để mang sự chữa lành cho những người xung quanh. Bề ngoài lạnh nhưng trái tim nóng cháy, thẳng tính nhưng đầy ấm áp yêu thương. Những lúc tuyệt vọng thì cô là chỗ dựa tinh thần. Những lúc bất lực thì cô là nhà cố vấn cho những lời khuyên răn, những lúc cô đơn thì cô là nguồn động viên an ủi.

   Có những lúc chỉ cần người bạn lắng nghe sẻ chia trong lúc ta cô đơn tuyệt vọng cũng đủ làm con người ta hạnh phúc biết ơn. Thế nhưng đối với cô lại khác. Không những lắng nghe sẻ chia đồng cảm, cô còn sống và đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Tôi cảm giác cô cùng đồng khóc đồng cười với họ trong những nan đề mà họ đối diện. Tôi không cô đơn khi được biết đến cô, người mà tôi có thể trông cậy chia sẻ những bí mật thầm kín, để xin lời cầu thay, để chia sẻ những nan đề trong đời sống. Ẩn mình trong lớp vẽ bề ngoài mạnh mẽ, yêu đời hài hước là một trái tim ấm nóng của người phụ nữ đầy yêu thương và sẻ chia.

   Cầu xin Đức Chúa Trời sử dụng cuộc đời của cô một cách đặc biệt và quyền năng. Những mảnh vỡ thăng trầm trong cuộc đời cô được bàn tay Đức Chúa Trời hàn gắn và mài giũa một cách đặc biệt. Cảm ơn cô vì tất cả.

                                                                           Sinh viên Trần Vũ Kiều Phương

 

Phần Một

MỘT CHÚT KINH NGHIỆM ĐỜI TÔI

   Diane Nguyễn, tên Việt Nam là Nguyễn Thị Đạo sinh ngày 08/03/1959. Tôi sinh ra và lớn lên trên đất Quảng Ngãi, ngày ấy Quảng Ngãi là nơi khô cằn, sỏi đá, cũng là nơi chiến tranh xảy ra liên miên. Sự sống và sự chết cận kề trong gang tấc. Tuổi thơ tôi là những ngày chạy lánh nạn và sống cảnh màn trời, chiếu đất bao lần. Ba mẹ tôi rất có cảm tình với các giáo sĩ Mỹ, những người tình nguyện rời bỏ quê hương giàu có xa xôi để đến nơi chiến tranh đẫm máu, giúp người tìm được ý nghĩa sống. Tôi đi nhà thờ Tin Lành từ nhỏ, học Kinh thánh để được ở trong sự quan phòng che chở của Đức Chúa Trời toàn năng.

   Năm 1977, năm ấy tôi và gia đình không còn nhóm họp thờ phượng Chúa nữa, nhưng cũng không theo tôn giáo khác. Có lần, tôi giúp chở một người quen đi xem bói khi cô ta nhờ tôi chở đi hộ. Tôi hoàn toàn không tin bói toán chút nào cả, còn chống triệt để nữa là khác. Khi cô nghe bà thầy bói nói, tôi luôn tỏ vẻ bất bình và rất vô lễ, tôi chỉ sợ bà ấy lừa bịp cô kia thôi. Bà ta rất tức giận, bà ếm bùa trên bộ bài rồi cho tôi với những lời giải thích căn bản cách phán đoán trên con bài.

   Tôi tò mò và cũng để chứng tỏ cho bà biết là láo toét, nên tôi cầm bộ bài về, tôi thử nghiệm với bạn tôi là Quỳnh Chi, một cô gái đẹp và vô cùng nết na, chưa bao giờ bồ bịch với ai. Theo sự chỉ dẫn của bà, tôi bảo bạn ấy thầm hứa nguyện trong lòng rồi lật bài đưa cho tôi theo đường tình duyên. Tôi cứ theo đó mà nói rằng bạn trai này của bạn có gì đó, bỗng dưng bạn vùng đứng dậy bỏ ra về. Tôi không biết ất giáp gì.

   Khoảng một tiếng đồng hồ sau, một thanh niên lái xe Vespa vào nhà tôi, đèo theo bạn ấy. Tôi ngỡ ngàng mới biết bạn ấy có bạn trai vừa quen chưa bao lâu và còn trong giai đoạn bí mật. Anh ta đang học ở Sài Gòn, còn chúng tôi ở Quảng Ngãi, chưa bao giờ ra khỏi tỉnh. Anh hỏi tôi là có quen ai ở Sài Gòn mà biết anh không? Tôi trả lời không! Anh không tin vì anh bảo những gì tôi nói về anh đều chính xác 9/10, chỉ 1 phần tương lai là cần kiểm chứng thôi. Tôi nghe mà bàng hoàng, chả nhẽ việc bói toán là đúng sao.

   Để kiểm chứng thêm, tôi coi cho hết thảy mọi người quen, và nó đúng tới mức tôi cũng bị bắt phục luôn. Thế là tôi bắt đầu nổi tiếng cho đến khi ra Huế học Đại học sư phạm. Người Huế rất mê tín, dị đoan. Gian hàng Hàng mã ngoài chợ của họ lớn khủng khiếp. Họ thờ ma lạy quỷ bằng đủ mọi hình thức.

   Từ bạn học đồn ra tới ngoài chợ, người ta nhờ tôi xem bói cho nhiều lắm. Có người còn xem tôi như bà thánh nào đó nữa, sẵn sàng quỳ lạy trước tôi. Tôi cứ nghĩ là giúp người thôi, chứ không lấy tiền. Tôi cho mình tốt hơn thầy bói ăn tiền. Nhưng kể từ đó tôi bắt đầu sống trong ác mộng. Nó quấy phá rất tinh vi, chúng làm tôi nghẹt thở mỗi đêm, mà người ta gọi là “Mộc đè”, rồi sau đó là thấy rắn vây bọc chung quanh. Đó là con vật mà tôi sợ nhất. Chúng hiện ra mỗi đêm, không trừ đêm nào. Tôi bắt đầu mắc chứng hoảng loạn. Lúc đó tôi không biết là tôi đã bị quỷ ám.

   Quỷ ám bắt tôi nói nhảm, rồi đôi co với nó, như thử nó là người thật vậy. Nó làm tôi nổi khùng liên tục. Hể không vừa lòng là nó đánh, đánh không được thì làm đau mình, nhiều khi bất mãn tôi nhảy lầu…

   Các bạn tôi thật khốn khổ vì tôi. Có đêm đang ngủ, nó bắt tôi dậy uống hết chai thuốc giặt đồ, bọt sùi ra mọi lỗ trên người tôi, phải cấp cứu bệnh viện. Bạn học ở chung phòng người Điện Bàn, Quảng Nam nói: “Ta khổ cho mi quá mi, bỏ mi thì ta không nỡ, mà ở với mi ta bất an miết, không biết lúc mô mi chết. Ngủ mà ta không dám nhắm hai mắt”. Thương bạn ấy lắm. Quỷ cứ bắt tôi chết liên tục. Nó bắn vào đầu tôi mọi tư tưởng tiêu cực, khiến tôi bất mãn, cáu gắt, rồi không hài lòng thì tự tử.

   Dù không đi nhóm với Hội Thánh nữa, nhưng đối với tôi Chúa Giê su vẫn là Chúa duy nhất của tôi, và Ngài có quyền năng đuổi quỷ và chữa bệnh ở trong tôi. Ma quỷ không chiếm lấy linh hồn tôi được thì nó hành hạ thân thể tôi. Tôi đau đủ thứ bệnh, tự đến rồi tự đi, rồi đổi sang bệnh khác, không lúc nào an bình. Thật vậy, tôi không bao giờ an bình, nhất là trong khi ngủ. Tôi sợ ngủ đến độ phải ngồi mở mắt ra dù rất buồn ngủ. Vì hễ nhắm lại là rắn đủ mọi loài nhào tới, quấn lấy cổ, lấy đầu tôi. Sợ lắm.

   Bốn năm học ở Huế là 4 năm kinh hoàng, nhưng ngược lại tôi luôn có điểm cao và trí nhớ rất tuyệt. Bài dài đến mấy chỉ cần đọc đến lần thứ ba là nhớ hết. Những ngày tháng ảm đạm đó theo tôi mà không ai hiểu được. Tôi rất ghét Hội Thánh, tôi cho tất cả bọn họ là đồ giả hình. Ma quỷ tiêm vào tôi tất cả những suy nghĩ lệch lạc và rất tiêu cực. Không có gì vui để sống cả.

   Sau khi tốt nghiệp, tội nhận nhiệm sở dạy học tại trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt. Cho đến khi tôi lên Đà Lạt dạy, tâm tính tôi rất ư bất thường. Cười đó, khóc đó, phẫn nộ đó rồi tủi thân đó. Các em học sinh sau này đã tâm tình lại với tôi như vậy. Rồi thì bịnh tới, có khi cánh tay tôi sau một đêm bỗng dưng cứng đơ, nhức buốt không chịu nổi, từ cái này sang cái kia, liên tục, chữa cách gì cũng không khỏi, rồi cũng tự hết. Thân thể tôi như trò chơi trong tay ai đó vậy.

   Lúc đó có nhiều bạn đồng nghiệp nam để ý tôi, nhưng tôi thấy ai cũng kỳ cục hết. Quen một thời gian rồi bỏ. Chỉ có anh Nhật dạy Pháp văn là tôi thân thiện được, vì anh chịu được tính nết bất thường của tôi. Anh luôn khuyên tôi kêu cầu Chúa, và anh nói anh luôn cầu nguyện cho tôi. Tôi cũng cảm động chút đỉnh. Cũng có anh Thành nữa, là tín đồ Tin Lành, nhưng anh chẳng bao giờ thổ lộ tình cảm mình. Anh thấy tôi đá mông bao người nên anh ngại. Khi tôi bị bệnh nặng, chính anh đã lo lắng và chịu trách nhiệm mang tôi về Sài Gòn với gia đình. Tôi trân quý tình cảm anh dành cho tôi.

   Vào năm 1987, tôi bị lâm trọng bệnh từ một cơn sốt ác tính, gọi là sốt rét. Sau một tháng điều trị ở bệnh viện, thân thể tôi dần hồi phục, nhưng bên phải lại yếu đi đến nỗi không thể nâng nổi phấn hay bút để viết. Lúc ấy tôi là giáo viên dạy tiếng Anh ở trường phổ thông trung học Bùi Thị Xuân Đà Lạt, tôi như bị liệt một nửa người. Trước tình trạng ấy, nhà trường chuyển tôi về Bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn để điều trị. Thực sự là họ muốn trả tôi về cho gia đình chăm sóc.

   Thời kỳ ấy, thuốc thang rất hiếm. Các bác sĩ cũng vật lộn với tình trạng thiếu thốn thuốc men và thiết bị y tế. Không nằm viện sẽ không biết nỗi đau của bệnh nhân và sự đấu tranh nội tâm của những y bác sĩ, họ đáng thương lắm. Đồng lương họ nhận không đáng với sự tranh chiến để giành mạng sống của những người mà họ chịu trách nhiệm phải đưa lên bàn mổ mỗi ngày để xử lý cho đúng hầu cứu được bệnh nhân.

   Lúc ấy, tôi nằm chung phòng với những bệnh nhân bị các vấn đề về đầu, não bộ. Và bị xếp nằm cùng một cô em tên Nga trên một cái giường đơn dành cho một người. Trên đầu em dán đầy những mảnh giấy mỏng dành để vấn thuốc lá. Bên cạnh giường tôi là một bệnh nhân khác đến từ Rạch Giá, với một con mắt trái lồi hẳn ra ngoài, to hơn con ốc bươu do bướu bên trong não đẩy ra. Ngày vào nhập viện, tâm thần tôi đã bấn loạn trước cảnh đó. Trên Đà Lạt tôi đã nằm 30 ngày trong khu sốt rét, cũng không đến nỗi nào. Bây giờ vào bệnh viện lớn nhất nước, với số lượng bệnh nhân quá tải, lại nằm dài lâu, vô thời hạn này, thật kinh khủng. Tôi xin đổi sang khoa khác, nhưng đâu đâu cũng vậy.

   Bệnh nhân tên Nga đó đã nằm bệnh viện ấy đã hơn hai năm. Câu chuyện bi thương lắm. Cô là thợ dệt vải. Một hôm máy quay sợi bị hư, cô đến sửa, đang loay hoay cúi xuống để sửa thì búi tóc dài của cô xổ ra và rơi xuống đúng lúc máy hoạt động lại. Thế là cả tóc cô bị xoắn vào đó không sao rút ra được. Nó bóc hết mọi da đầu của cô. Cấp cứu bệnh viện, chữa trị với mọi loại thuốc, nhưng da cô luôn bị nhiễm trùng cho dù họ đã dùng hết tất cả các chỗ da mỏng trên người cô để cấy ghép. Đáng thương làm sao. Còn chị quê ở Rạch Giá thì phải chờ lâu cả mấy tháng rồi, do bệnh viện không có phim để chụp định hình cục bướu trước khi mổ. Nhiều và nhiều lắm những ca như vậy. Đau đớn thân xác, khủng hoảng tinh thần… tôi không muốn sống nữa.

   Những lời nói từ đâu trong trí tôi cứ hiện ra: “Mầy chết đi cho xong, mầy sống nữa làm gì, mầy sẽ làm khổ mẹ mầy thêm thôi. Nhìn bà kìa, ngày một hao mòn vì cớ mầy…” Nó đánh vào tâm lý tôi, vì tôi thương mẹ tôi nhất. Một tháng điều trị trên Đà Lạt, tôi đã giấu bà, tôi không muốn mẹ khổ vì tôi. Giờ đây, chứng kiến nỗi thống khổ không phương cứu chữa của mọi người, tôi thật sự muốn chết. Tôi bắt đầu lên kế hoạch, tìm cách chết âm thầm nhất. Tôi xin về điều trị tại nhà trong khi chờ phim chụp X-Quang.

   Thấy mẹ ngày đêm vật vã vì tôi. Bà cứ cầu nguyện, cầu nguyện và gọi cả mọi người trong hội thánh cầu nguyện cho tôi. Tôi đau đớn bực bội, chán ghét, cái giận dữ vô hình từ đâu trong tôi bộc ra, nó khiến tôi đập phá, gào thét, sỉ nhục, mắng chửi mà không hề quan tâm đến người nghe. Lúc đó tôi trở nên như là một con quỷ.

   Rồi sự thôi thúc tự tử ngày càng lớn. Kế hoạch đã lên, tôi mua 40 viên thuốc ngủ giấu dưới gối, đợi tối đến sẽ thực hiện. Khi cầm thuốc trong tay rồi, một nỗi sợ bỗng ùa về. Trong hoảng loạn đó, tôi kêu lên với Chúa Giê-su mà tôi tin từ nhỏ: “Chúa Giê-su ơi, nếu Ngài là Đức Chúa Trời thì xin cứu con khỏi địa ngục, nếu không, thì xin cho con sống đúng mục đích mà Ngài tạo ra con.” Rồi tôi nuốt trọn số thuốc đó.

   Uống thuốc xong tôi không còn biết gì nữa cả. Một hôm tôi mơ hồ nhìn thấy nhiều bóng người nhạt nhòa di chuyển quanh tôi. Vì cổ họng và mắt tôi đã bị tổn hại bởi thuốc. Tôi không thấy rõ được, nhưng tai cứ nghe mãi một bài hát đến nỗi thuộc lòng luôn: “Ngày vui hơn hết, ngày tôi tin Chúa, tôn Giê-su Christ làm Cứu Chúa mình, từ nay tôi mãi mừng vui, ca múa, đi khắp mọi nơi truyền bá Tin Lành. Giê-su khuyên tôi, tỉnh thức, khẩn nài. Cho tôi an ninh, vui sống mỗi ngày. Ngày vui vẻ, ngày sung sướng, khi Chúa rửa tôi sạch sẽ mọi đường.”

   Đó là lời bài hát, mà sau này thật là lời đầu tiên tôi nói lên khi sống lại.

   Tình trạng mơ hồ như vậy kéo dài bao lâu tôi không nhớ, cho đến một hôm tôi nhìn thấy được. Tôi thấy trên bàn kề giường ngủ của mình có một cuốn sách nhỏ, bằng nửa bàn tay, mà người Tin Lành gọi là Truyền đạo đơn. Tò mò tôi mở ra xem, ngay trang đầu tiên có ghi câu này: “Chúa Giê-su phán: Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Đọc đến đó, bỗng dưng tôi bực tức kêu lên: “Chúa không biết là con rất mệt mỏi đến nỗi không muốn sống sao, mà Chúa không cho con yên nghỉ?”

   Tự nhiên tôi nghe Ngài trả lời: “Con biết không, Ta là Đức Chúa Trời, nhưng Ta có lòng nhu mì và khiêm nhường, còn con thì không!” Tôi cãi lại: “Con mà không khiêm nhường à? Chỉ tại mọi người đều ức hiếp, chà đạp và vu khống con. Ban giám hiệu trường luôn cho con là phản loạn, bạn đồng nghiệp thì cho con là phiền toái…” Lúc đó tôi nói nhiều lắm để biện hộ mình. Chúa không nói gì cả, bỗng nhiên tôi nhìn thấy toàn bộ cuộc đời mình diễn ra trước mắt, như một cuốn phim. Mọi chuyện xấu, tốt đều được ghi hình từ khi sanh ra cho đến lúc đó.

   Tôi khủng hoảng: “Ô, tôi đó sao? Tôi đã nói vậy, làm vậy, suy tính vậy?… Ghê quá, nếu ai cũng thấy vậy rồi, mình sẽ sống sao đây? Tôi ghê tởm chính mình, tôi không muốn thấy nữa. Tôi gào lên với Chúa: “Được rồi, được rồi, con chấp nhận xuống địa ngục, ôi sao con lại ghê tởm dữ vậy.” Tôi bịt mắt để không còn nhìn thêm nữa.

   Nhưng Ngài đã hiện ra. Tôi khóc. Ngài thật đã hiện ra, tay, chân và đầu Ngài còn chảy máu. Ngài nhìn tôi đầy âu yếm và nói: “Ta yêu con và luôn dõi theo con. Đã bao lần Ta gọi con, cảnh báo con, mà con nào nghe. Con cứ mãi bước đi theo sự lôi cuốn của đời này. Ta chờ con quay về. Ngày con gọi Ta thành khẩn khi hỏi rằng: Nếu Ta là Đức Chúa Trời, hãy cho con sống đúng ý nghĩa Ta đã tạo nên con. Ta đến để trả lời con đây. Khi con không thấy và không chấp nhận tội mình, Ta không giúp con được. Ta đã thấy tấm lòng con, sự ăn năn, thống hối của con. Nầy nhìn huyết Ta đây, huyết đã đổ ra để rửa sạch tội con.” Ngài đưa bàn tay còn chảy máu của Ngài ra cho tôi xem. Tôi khóc van xin Ngài tha thứ. Ngài nói: “Ta đã tha tội cho con rồi, từ nay con hãy sống, sống theo đúng mục đích mà Ta tạo nên con.”

   Rồi Ngài biến mất. Cuộn phim ghi hình tôi lúc nãy cũng hoàn toàn biến mất, như màn hình máy tính bị bấm nút xoá vậy. Tôi mừng quá, nhảy xuống giường và la hét ầm ỉ, “Tôi đã được tha thứ rồi. Chúa xóa tội tôi rồi, tôi được tha tội rồi, được tha tội rồi.”

   Không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra, chỉ biết là tôi không còn bại nửa người nữa. Tôi như người ở trong cơn mộng, cứ thế mà sống, mải mê nói chuyện với Chúa và nói về Ngài cho mọi người tôi gặp. Yêu Chúa quá nên không thể giữ trong lòng. Gia đình tôi sợ làm tôi nghĩ quẩn một lần nữa nên không chống đối hay khuyên can gì.

   Mỗi ngày tôi đam mê đọc Kinh Thánh, rồi tối thì đi nghe giảng ở bất cứ Hội Thánh nào có truyền giảng. Tôi khao khát lời Chúa như người đói lâu ngày giờ được ăn vậy. Bao nhiêu cũng không đủ. Tại nhà, tôi bắt mọi người lên lầu nghe tôi nói về Chúa Giê-su Christ, về tình yêu của Ngài, về sự nhu mì, khiêm nhường của Ngài, về quyền năng Ngài làm trên đời sống tôi. Ba tôi là người đầu tiên tin nhận Chúa qua đời sống được biến cải của tôi, rồi hàng bao người khác nữa. Thật như bài hát:

   “Nhà xiêu vách nát, kèo cột lung lay, Giê-xu ngự vào, hoá thiên cung ngay.”

   Thời gian tôi bệnh là thời gian Mục sư Trần Mai đang hầu việc Chúa ở Hội Thánh Tin Lành Trương Minh Giảng, một Hội Thánh đã cưu mang lời cầu nguyện của mẹ tôi cho mạng sống tôi. Tôi biết ơn và xin được ghi ơn.

   Cũng trong giai đoạn này có người đề nghị tôi đi vượt biên. Tôi không muốn đi, nhưng mẹ tôi thì cương quyết, vì bà thật sự lo cho bệnh tình của tôi. Không muốn mẹ tôi buồn nên tôi đã đồng ý. Năm 1988, tôi ra đi là vậy, và Chúa đã đồng hành với tôi để giúp tàu thoát bao cơn nguy hiểm. Trên tàu khi mọi người đã đuối sức, tôi đành phải học lái tàu. Chúa đi cùng tôi lúc ấy để đem mọi người đến bến bờ bình an.

   “Con sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va suốt đời. Nếu con còn sống bao lâu, con sẽ ca hát cho Đức Chúa Trời của con bấy lâu.” (Thi Thiên 146:2)

   “Tôi sẽ chẳng chết đâu nhưng được sống Để thuật lại những công việc Đức Giê-hô-va.” (Thi Thiên 118:17)

 (CÒN TIẾP – ĐÓN XEM PHẦN 2)

Bài Viết Chọn Lọc

Bài Viết Được Quan Tâm

Bài Viết Liên Quan