13/ Sadhu có ân tứ chữa bệnh.
Thật ra Sundar từ lâu đã biết mình có ân tứ này và giờ đây ông khổ sở để lấy quyết định là từ chối mọi yêu cầu của nhiều người xin cầu nguyện chữa bệnh cho thân nhân. Ông có thể có ân tứ này nhưng ông không phải sử dụng nó. Ông buộc phải có quyết định đó, ông bị áp lực tại nhiều thành phố, làng mạc nơi người ta muốn được chữa bệnh để rồi không tạ ơn Chúa cũng không quan tâm nghe sứ điệp mà ông rao truyền. Sự chữa bệnh có thể làm ngăn trở sứ điệp của ông hơn là làm cho có hiệu lực. Sundar thường làm như thế chiến đấu trên chiến trường mà chính Chúa Jesus cũng đã phấn đấu lâu dài trước đây.
Ông rời Tích Lan về nghỉ ngơi tại Bengal và lưu lại nhà của một thi sĩ trứ danh Ấn độ tên Rabindrinath Tagore. Chính thi sĩ này cũng là bạn của Giáo sĩ CF Andrews, người chí thân của Sundar.
Một kết quả cụ thể khác làm sáng danh Sundar. Tín đồ các tôn giáo như Ấn độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Sikh, Cơ đốc giáo đều thích nghe ông nói về Phúc âm Cơ đốc theo cách trình bày của Ấn độ bởi một người Ấn giải thích trong những thuật ngữ của truyền thống Ấn. Phần còn lại là những nguời Ấn không theo thuyết duy linh mà mê tín theo các quốc gia miền Bắc đóng kín. Bất cứ nơi nào ông đi dến không còn sự khủng bố nữa, thay vào đó là sự kính trọng sâu xa.
Vào mùa Xuân 1919, Sadhu rời khỏi những thành trì vững chắc của Tây Tạng, nơi ông một lần nữa đối diện với sự chết để dấn thân vào những chuyến du hành khác. Không đến được Bristish Columbia hay Palestine, ông hướng về miền Ðông đi đến Miến Ðiện. Buổi lễ lớn tại Ðại Thánh Ðường Rango còn là đoạn mở đầu cho chuyến du hành truyền giáo đắc thắng đưa dẫn ông đến suốt cả nước Miến Ðiện, Mã Lai, Penang, Singapore va tiếp đến Trung Hoa và cuối cùng đến Nhật Bản. Bất cứ nơi nào ông đến dù chiếc áo vàng không được quen biết như tại đất Ấn nhưng khuôn mặt và sự hiện điện uy nghiêm của ông đánh dấu ông một sự khác biệt.
Sự khó khăn về ngôn ngữ tại Singapore đã được giải quyết. Tại Penang ông nói tiếng mẹ đẻ của mình tại một đền miếu Sukh và sau đó ông nói chuyện tại Hí viện Empire dưới sự chủ tọa của vị Tổng Giám Ðốc Cảnh sát và diễn văn bằng tiếng Hindustani của ông được thông dịch ra Anh ngữ, Tamil, Mã Lai và Trung Hoa. Tại Singapore, thật là kinh hoàng, chẳng có ai tại Hội Trường có thể giúp ông thông dịch. Do dự trong chốc lát, sau một lời cầu nguyện khẩn cấp, ông bắt đầu mở miệng nói – lần đầu tiên trước công chúng- bằng tiếng Anh. Từ đó, tiếng Anh là tiếng thông dụng của ông cho các buổi hội khác tại Ấn Ðộ.
Bạn bè của ông khắp nơi trên thế giới nhiệt liệt hoan nghênh ông. Ðối với những người miền Ðông, người ta nhận thấy ông nói cũng giống Chúa Jesus và dáng dấp của ông chẳng khác chi Chúa cả. Ông lên đường đi về miền nam kỳ này, mọi người đều biết rằng ông rất khiêm tốn. Nhưng Sundar cũng có thể gặp nguy hiểm làm hủy hoại ông vì sự tôn sùng của những đám đông quần chúng.
Họ đã sai lầm trong sự nhận định rằng sự khiêm tốn của Sundar sẽ làm cho miễn trừ khỏi sự cám dỗ kiêu căng. Và họ cũng lầm lẫn khi e ngại rằng ông có thể là nạn nhân.
Sadhu đã từng chiến đấu đơn độc trong rừng miền Nam Ấn độ. Ðôi lần sau này ông đã kêå lại cho các bạn nghe câu chuyện huyền bí của riêng ông.
Ông đã tìm kiếm sự thanh tịnh cho viêïc thỉnh nguyện. Một người nói rằng Sadhu là một con người mà cả Ấn độ đang tìm kiếm. Ông chứng tỏ có thể lôi kéo mọi người từ mọi niềm tin đến với mình. Ông bày tỏ rằng có một mức độ của lẽ thật trong mỗi tôn giáo. Ông là người đầu tiên khám phá ra rằng có nhiều con đường đưa tổ quốc đến với Thượng đế. Hoàng đế Akbar đã xây một cái đền cho mọi tôn giáo 400 năm trước. Người sáng lập tôn giáo riêng của Sundar đó Guru Nanak đạo Sikh, chính ông này đã tìm được chân lý trong Ấn giáo và Hồi giáo. Và bây giờ là thời gian cho một tiên tri khác, một Guru đem tất cả Ấn độ về cùng một mối. Dĩ nhiên có những cái sai trong các tôn giáo cần được tẩy sửa nhưng cũng có những lẽ thật cần được khám phá. Ðiều cần yếu là có một tôn giáo hợp nhất lại các tốt đẹp nhất và trừ bỏ cái xấu. Chúa Jesus của một tân giáo sẽ là một sự khải thị lớn lao nhất của Thượng đế mà cả thế gian đã biết, dù rằng Ấn giáo, Hồi giáo hay Phật giáo sẽ không mất uy tín. Sadhu Sundar Singh có thể là tiên tri của Ngài. Sundar có thể đi vào lịch sử như là một tiên tri lớn hơn Guru Nanak, vĩ đại hơn, tiếng tăm hơn Mohamed.
13/ BÊN KIA CỬA CẤM (1919)
“Khi nào anh nghĩ rằng anh sẽ trở về , Aadhuji ? (Cách xưng hô thân mật với Sundar).
Mỗi chuyến hành trình qua Tây tạng, bạn bè ông thường hỏi những câu hỏi tương tự như thế. Và câu trả lời cũng được ghi nhận tương tựï như mọi lần. Sundar sắp xếp mọi việc trong thời gian ông vắng mặt. Chẳng có trương mục nào trong ngân hàng- quỹ lạc quyên cho những chuyến truyền giáo sang Tây Tạng gửi ở Alliance Bank tại Simla- cũng không có giấy tờ để lại cho ai trông coi giúp người ra đi. Ông thường dự định trở về vào thời gian chấm dứt mùa nóng. Và trong giọng nói đầy suy tư trả lời cho câu hỏi về sự trở về cùng bạn mình rằng: “ Tôi chẳng bao giờ kỳ vọng sẽ trở về từ Tây Tạng”
Không bao giờ ông tỏ ra đau khổ sợ chết. Lý tưởng của người Sikh xưa kia về sự tử đạo cho niềm tin đã được biến dạng bằng thập tự giá, mà ông muốn mang nó suốt cuộc đời mình. Và trên thập tự giá đó ông sẵn sàng chờ đón sự chết khi sự cuối cùng đến. Chỉ có một nỗi buồn của con người mà nó đang nặng trĩu trong lòng ông: ông muốn có ngày làm hòa với cha mình.
Sher Singh vẫn còn khỏe mạnh sống tại Rampur. Sundar thỉnh thoảng vẫn về quê thăm viếng, và nhận thấy nhiều người, kể cả gia đình ông đã từng từ bỏ ông trước đây, bây giờ đã thay đổi thái độ kính trọng sự thánh thiện, sự tu hành và không còn chống đối Cơ đốc giáo nữa. Ít ra nhiều người dân trong làng rất hãnh diện và danh dự mà Sundar đã đem lại cho quê hương mình tại Rampur, nhưng sự ngăn cách trước nay vẫn còn kiên cố giữa Sher Singh, tôn giáo Sikh và người con trai mặc áo vàng.
Sundar leo lên những đỉnh núi cao Hy mã lạp sơn năm này qua năm khác, người ta phân vân không biết có thể trở về trước mùa tuyết rơi và còn hy vọng có dịp tái hợp với người cha già cứng lòng hay không. Sự chia rẽ này có thể tiếp diễn cho đến chết, nhất là khi Sundar đem về tin người bạn Kartar Singh tử đạo.
Sundar đến làng Tsingham, Tây tạng, gặp được một người mà dân làng đã từng mê tín tôn trọng. Ông là một trong số rất ít người có thể rao giảng về Chúa Jesus tại một xứ sở chống đối Cơ đốc giáo mà không sợ bị trả thù. Ông ta trước kia là Tổng thư ký cho vị Lama của thành phố, đã đầu phục và tin nhận Chúa Jesus do lời làm chứng của một giáo sĩ. Ðầu tiên ông thú nhận niềm tin với vị sư thầy của mình là một Lama Phật giáo rất cuồng tín và ngu dốt. Trong một vài ngày sau, ông bị tuyên án tử hình trước tường thành của tu viện. Tử tội bị may chặt trong lớp da bò tươi rồi ném ra ngoài nắng nóng như thiêu như đốt để da bò ấy co rút lại siết chết tội nhân. Khi tội nhân chưa chết, nhiều nhát kiếm đâm xuyên qua làn da bò vào xương thịt rồi bị kéo qua đường phố để ném vào đống rác phế thải ở ngoại ô. Tra tấn hành hạ giáng lên tử tội xong, người ta ném xác rã rượi không còn thở trên đống phân và chim kên kên bắt đầu bay đến. Tuy rằng cách hành hạ tàn bạo như vậy có thể sẽ làm ông chết, hoặc vì chất độc, đói khát kéo dài mấy ngày sau đó có thể làm ông chết, nhưng ông ta không chết và ông cố bò lết vào làng để giảng đạo. Khi Sundar hỏi con người kỳ lạ này làm sao ông tin nhận Chúa Jesus, thầy giảng đạo này trả lời rằng do lời làm chứng của một người tử đạo khác đã bị hành quyết cũng theo cùng một cách tại thành này. Khoảng một giờ đồng hồ chót trước khi chết, nạn nhân yêu cầu được tự do cánh tay mặt một chút . Trong đau đớn, anh lăn mình về cuốn sách nhỏ mà người ta để bên cạnh anh. Ðó là cuốn Kinh Tân Ước. Một khách bàng quang cho anh một cây viết, người tuẫn đạo viết trên một mảnh giấy lời nhắn nhủ cuối cùng: “ Sự sống mà Chúa ban cho tôi, tôi dâng cho Ngài”.
Sadhu khám phá rằng người giáo sĩ trẻ mà lời chứng có kết quả đáng kể như thế là một người Ấn, thuộc gia đình Sikh tiểu bang Punjab như ông, tên là Kartar Singh. Ông cũng vậy, đã từng được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu sang, đã bị gia đình khai trừ và cuối cùng xâm nhập vào vùng Hy mã lạp sơn để giảng đạo cho người Tây Tạng quỷ quái đáng sợ này.
Sundar trở về Pamjab mang theo câu chuyện người tuẫn đạo Kartar Singh và cố tìm cho được người cha của chàng trai trẻ anh hùng đức tin đó. Ông cha này đã mất hút tin con trai đã nhiều năm qua và khi nghe Sundar kể lại sự can đảm cũng như kết quả của đời sống và sự chết của cậu con trai mình, lòng ông tan vỡ. Người cha đưa tay nắm lấy áo vàng của Sadhu , những ngón tay chạm vào góc bìa của quyễn Kinh Tân Ước mà Sundar mang về. Mắt ông rớm lệ và nghẹn ngào nói: “ Tôi cũng đã tin nhận Chúa Jesus rồi.”
Sundar bước ra khỏi căn nhà đồ sộ to lớn sau khi từ giã người cha đó, thả bộ chậm rãi bước chân băng qua vùng cát nóng cháy, bàn chân không giày khuấy động đám buiï mù giữa những cây xương rồng. Cũng trong ngôi nhà sang trọng như vậy, thân sinh của Sundar đang sống kiêu hãnh như những con ngường Sikh kiêu hãnh. “Bao giờ cha mình chịu khó nghe những lời giải thích ấy ?”
Tây tạng không những không mến khách, hung dữ đối với những du khách xâm nhập vào vùng biên giới núi non, họ còn tìm cách ngăn trở du khách bước vào lãnh thổ của họ.
Năm 1919, năm thứ ba mươi của cuộc đời, Sundar đã từng ra vào Tây Tạng cả tá lần hoặc nhiều hơn. Các Lama chuyền miệng nhau câu chuyện về những chuyến Sundar truyền giảng và kết quả của nó. Giới chức lãnh đạo Lama và các thầy tu như bị thách thức tại những nơi Sundar có mặt. Ông xuất hiện như một hiện hữu vững vàng, lạnh lùng, như đe dọa và miễn trừ sự chết. Lịnh truyền cho các trạm kiểm soát biên giới rằng không cho Sundar được vào Tây Tạng. Chính quyền TâyTạng nói thẳng với chính quyền Anh quốc rằng ông không được phép nhập cư vào Tây Tạng, mọi cố gắng xâm nhập lãnh thổ phải được chấm dứt.
Con lộ chính của ông là từ Simla ngang qua Kotgarh nhưng nhiều giới chức chính quyền từ chối cho phép ông dùng đường này đi vào Lesser, thuộc Tây Tạng. Một lần khác, khi đi khỏi trạm biên giới, ông phải trở lại Poo, nơi mà những giáo sĩ người Moravian đã niềm nở tiếp đón ông mười năm về trước. lại nữa, ông phải dùng những đường khác thay thế từ Garhwal và Nepal, giới chức Anh không cho phép ông đi qua Gangtok và yêu cầu ông phải ra khỏi xứ. Năm này qua năm khác, Sundar phải chọn những con đường ra vào thay đổi: từ Simla, từ cao nguyên bên kia Lucknow và Bareilly, xuyên qua Almora, doc theo Pitharagarh trên biên thùy Nepal, từ Dangoli, ngang qua đèo Niti hiểm trở bên kia Badrinath, gần hồ Mansorowar, nơi đây các thánh nhân Maharshi của cao nguyên Kailas đang sống ẩn dật. Cả hai bên chính quyền Anh quốc và Tây tạng đều cố gắng ngăn chặn ông bước qua biên giới. Tuy nhiên, chẳng có năm nào trôi qua mà ông không thực hiện được một chuyến truyền giáo mùa hè tại đất Tây tạng.
Những hạn chế do con người tạo ra, không phải vì quá khó khăn mà không vượt qua được. Ðang mùa hè, các đèo núi đều rất nguy hiểm, những con bò, ngựa thồ và những người giỏi leo núi cũng rớt chết tại những nơi vách đứng, đá nứt sâu đánh dấu cho sự nguy hiển của đoạn đừơng phải qua. Những cơn bão tuyết đột nhiên xảy ra dù chưa nhằm mùa làm cho con đường bị tắc nghẽn. cơn lạnh giá dù ngay trong mùa hè cũng rất khắc nghiệt do những lớp tuyết đời đời trên vùng núi cao. Sundar chẳng bao giờ mang giày, thân mình quấn bằng một chiếc áo bằng vải màu vàng đơn sơ. Sundar là một con người có một thể chất đặc biệt, can đảm tột bực, chống đỡ bằng một tâm linh không hề mệt mõi.
Có một lần trong chuyến đi truyền giảng, ông nhận thấy những xác chết của những khách bộ hành đông cứng trong tuyết, một trận tuyết đang phủ kín ông và người bạn Tây Tạng đồng hành. Chặp sau, họ xoay sở, định hướng và đi ngược lại cơn bão tuyết. Sau khi vừa thoát ra cơn hiểm nghèo, Sundar nhận ra họ đang đứng trên bờ vực sâu . Dưới bờ dốc đá đó, có một người bị rớt xuống. Ông yêu cầu người bạn Tây tạng đồng hành cùng với ông xuống dưới kia để cứu người bị rớt. Người bạn Tây tạng từ chối, bày tỏ rằng anh chỉ mong được đến làng Ranget bình an. “Nếu ông muốn cứu người một cách điên rồ thì cứ thử sức với cái dốc thăm thẳm đó. Tôi sẽ tự mình đi về làng Ranget. ” Ðó là lời nói cuối cùng của người bạn đồng hành Tây Tạng.
Sadhu leo xuống bờ núi và tìm thấy người ngã té ấy hãy còn sống. kéo lê anh ta theo con đường. Thân xác đầy thương tích của anh dính sát vào Sundar và họ di chuyển chậm chạp hướng về Ranget, trạm nghỉ chân. Người té núi gần như bị đông cứng chânvà Sundar biết rằng nếu cả hai đều ngã té thì cả hai sẽ chết. Chỉ có cách duy nhất là họ cứ tiếp tục cử động và tiến bước, may ra họ có thể thoát chết.
Làng Ranget đã hiện ra trước mặt và cơn bão cũng nhẹ dần. Cả hai người đàn ông được sống do sự cố gắng chung mà thôi. Trong khi đó, họ nhận ra một thân xác khác nằm trải dài, đó là nguòi bạn đồng hành Tây Tạng của Sundar đang nằm chết một nửa người bị tuyết phủ.
“ Ai gìn giữ sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ tìm lại được” Sadhu lẩm nhẩm trong miệng trong lúc cả hai chậm chạp lê bước vào làng Ranget. Ông nói với người bạn mới về sự kỳ diệu của Chúa Jesus là Ðấng ban sự sống của Ngài cho mọi người được sống.
* Bất cứ điều gì Sundar đã đạt được tại Tây Tạng qua những chuyến truyền giảng hằng năm tạo cho ông danh tiếng lừng lẫy tại Ấn độ. Nhưng đối với ông điều quan trọng là các Hội Thánh Ấn được lay động và dần dần người ta nhận biết tài nguyên và trách nhiệm của mình.
Năm 1917, khi trở về sau chuyến truyền giáo, ông nhận nhiều bức thư yêu cầu ông thăm viếng miền Nam Ấn độ. Năm 1918 có lời yêu cầu ông nên đi miền viễn đông. Ông chấp nhận hai lời yêu cầu đó. Năm 1919, có những đề nghiï ông nên thăm viếng miền Tây: Anh quốc, Âu châu và Mỹ quốc.
Năm 1919 không có gì quan trọng hơn là những lời mời đi rao giảng tại thế giới Tây phương. Sadhu cũng thường mơ ước có dịp đi Anh quốc và Mỹ châu. Nhưng tài chánh là một nan đề cho các chuyến du hành này. Số tiền ông dành cho các chuyến truyền giảng tại Tây tạng được ký thác tại Simla. Ông không thể dùng để đi nơi khác được. Một điều ông biết rõ là nếu Ðức Chúa Trời muốn ông đi thì Ngài sẽ cung cấp phương tiện cho ông. Rồi câu chuyện kỳ diệu xảy ra.
Trở về từ những nỗi nguy hiểm ở Tây tạng, Sundar ngồi trước hiên cửa nhà bên cạnh Sher Singh. Mặt trăng hôm ấy sáng rực, soi sáng cả những cây cối xuyên qua cánh đồng. Từ xa, ở thành phố vang dội tiếng nhạc du dương của tiệc cưới. Ðó đây chó rừng tru hú. Bỗng nhiên có tiếng còi của chuyến tầu tốc hành đi Ludhiana thét lên xé màn đêm. Ký ức Sundar sống lại. Cũng vào một đêm như vậy, có thể trời hôm ấy lạnh hơn, tiếng còi vang dội trong tai, ông đã định tâm kết thúc cuộc đời cho đến khi ông tìm được sự bình an trước khi hừng đông ló dạng. Vào đêm đó, Ðức Chúa Jesus đã đến và nói chuyện cùng ông, mười lăm năm trước đây.
Sher Singh đưa cánh tay về phía Sundar chạm nhẹ vào áo vàng của ông. Tiếng của người cha đưa ông trở về với hiện tại.
“Con ơi, cha đây cũng đã đến với tình yêu của Chúa Jesus”
Cha con nói chuyện với nhau thâu đêm. Khi họ sửa soạn đi nghỉ, Sher Singh dừng và quay lại :” Con ơi, nếu Ðức Chúa Trời muốn con đi Anh quốc và Hoa kỳ, cha sẽ lo cho con mọi chi phí của chuyến du hành. Ðó là cách cha muốn bày tỏ sự hối cải tội lỗi của cha”.
14/ NGƯỜI NGOẠI BANG TÂY PHƯƠNG (1920-1922)
Sher Singh người cha già đã dâng hiến cảm tạ Chúa, điều này khẳng định rằng Sadhu có thể nhận lời mời đi thăm các nước Tây Phương.
Vào tháng Giêng 1920, ông lấy giấy tàu tên là City of Cai – ro để đi Anh quốc.
Vì sự tò mò của nhiều người đã làm cho ông khó chịu. Tại Anh quốc cũng như tại Hoa kỳ, vụ Sadhu Sundar Singh đến thăm viếng trở nên khó khăn hơn. Ông thật sự hoàn toàn không biết cách nào xuất hiện với những người ngoại quốc này. Dĩ nhiên, chiếc áo cà sa vàng của ông phải bị loại bỏ, còn mặc đồ tây phương thì ông khẳng khái từ chối. Nhưng có điều ông quan tâm về cái nhìn soi bói, tàn nhẫn của những người xa lạ vì nghĩ mình như là một môn đồ phải chịu đựng vì sứ mạng của mình. Ông biết mình có một sứ mạng tại vùng Tây phương này và ông không thể nào quên được.
Ông hy vọng tìm thấy Anh quốc là một quốc gia Cơ đốc giáo. Trái lại ông khám phá ra rằng đó là một đất nước đã bỏ quên Ðức Chúa Trời và là nơi tinh thần đông phương đã ăn rễ sâu nay thay bằng chủ nghĩa duy vật chống nghịch tàn nhẫn. Ông nhận thấy phần đất Âu châu và Úc châu rất tệ hại và ông tin rằng Mỹ châu còn tồi tệ hơn nữa.
Ðầu tiên ông lưu lại Birmingham, rồi đến Oxford và Luân đôn. Bất cứ nơi nào ông đi, đoàn người đông đúc tụ họp lại. Câu chuyện về ông được viết trên nhật báo chẳng thiện cảm và không hiểu biết. Có một lúc ông không chịu nỗi sự đè nặng của ban tổ chức, với lại phải mang giày, mặc áo choàng ngoài là việc chưa quen làm. Ngay sau đó, ông từ chối mặc áo choàng, với lý do rằng đã từng quen với cái rét buốt của Hy mã lạp sơn, Anh quốc không đủ lạnh cho ông. Bất cứ khi nào thấy thuận tiện ông đều làm như thế , ông tránh đi xe buýt, tàu lửa, xe điện vì chẳng bao lâu ông nhận thấy rằng đoàn người chen chúc, xô đẩy nhau với các bộ mặt hung hăng đã kéo tâm linh an bình của ông đi vào cơn gió lốc. Tĩnh nguyện quả thật là không dễ dàng. Thật là khó để nhận thức rằng những nhóm quần chúng đông đảo này chẳng nghĩ gì khác ngoài sự bảo hiểm an toàn, chuyện làm ăn, thương mại, tiền bạc. Họ có thể đói khát tâm linh như những người đông phương của ông.
Tại Hoa kỳ ông lại càng khốn khổ hơn, ngay sau khi đến nơi, cuộc vận động công cộng đã được dàn xếp trong thời gian ông lưu trú, nó làm cho ông kinh tởm khi khám phá ra rằng những cổ động viên hy vọng thực hiện một vụ làm ăn lớn để kiếm tiền cho đôi bên: cho họ và cho ông qua các buổi hội họp. Chương trình chẳng có gì với các Hội thánh, người ta làm cho ông an lòng bằng cách giao việc sắp xếp cho bạn bè của ông mà sự mơ ước duy nhất của họ là ông có thể nói chuyện với Hoa kỳ về Tin lành như ông đã từng làm tại Ðông phương.
Nhưng ông Sadhu nhận thấy ông không thể nói giống như vậy tại miền Tây Phương này. Ấn độ là một quốc gia tôn giáo. Tây phương hoàn toàn khác hẳn về gia trị thuộc linh. Sứ mạng của ông là để họ thấy chính họ như ông nhìn thấy họ vậy.
Hằng trăm người lấy làm bực mình về những lời đoán định và phê phán ngay thẳng đã làm mất lòng họ mà người thánh hiền từ Ðông phương ba mươi tuổi này không chút ngại ngùng công bố. Họ cho rằng ông không biết gì những ràng buộc của đời sống kỹ nghệ và sự căng thẳng trong mối giao dịch thương mại hiện đại. Dù vậy, hàng ngàn người lắng nghe và cảm động, thách thức được biến đổi bởi sự giảng dạy của ông. Ông là người chẳng e sợ khi tố cáo cũng như lúc nhẹ nhàng nhắn nhủ.
“ Tôi tìm thấy một hòn đá ở giữa dãy núi Hy mã lap sơn. Nó trống rỗng và khi tôi đập bể ra tôi tìm thấy bên trong hoàn toàn khô ráo. Cũng như vậy, nơi phương trời Tây phương, quý vị đã nằm nghỉ hằng bao nhiêu thế kỷ trong nước của Cơ đốc giáo nhưng nước ấy không thấm thấu vào lòng quý vị” Ông nói với khán giả như vậy.
Không một khán giả nào có thể giữ lòng cứng trơ khi họ nhìn vào cặp mắt lấp lánh trên khuôn mặt màu da olive, với râu quai hàm đen, giọng nói mềm mại và khẳng khái của ông khi công bố : “ Trong ngày phán xét, người không tin Chúa tai Ðông phương sẽ lãnh án nhẹ hơn quý vị tại Tây Phương. Họ chưa bao giờ nghe Tin lành. Còn quý vị đã từng có cơ hội nhưng quý vị bỏ rơi”.
Ông giảng những lời của Chúa Jesus làm khích động người Mỹ bằng cách quả quyết rằng Chúa của ông đã gọi họ: “ hỡi những kẻ gánh nặng với vàng bạc, hãy đến cùng ta. Ta sẽ cho các con được an nghỉ”.
Từ Hoa kỳ ông trở về lại Ấn độ, ghé ngang Honolulu, Úc châu và Tích lan. Bất cứ nơi nào ông đến, ông đều nói: “ Công việc của tôi là rao giảng” Một số người khi đã nghe qua ông thuyết giảng, thật khó cho họ quên ông.
Ông về Ấn độ vào cuối mùa xuân và sau khi giảng lưu hành tại các Ðại Hội Cơ đốc hay các buổi hội thảo, ông lên đường về phía Hy mã lạp sơn để qua Tây Tạng. Sự lỗ mãng của những ngưỡi Phật giáo Tây tạng, những mối hiểm nguy của các vực thẳm trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn và những chiếc cầu băng tuyết đang chờ đón ông sau những vụ cự tuyệt thuộâc linh mà ông đã phải chịu đựng tại các nước Tây Phương. Và điều làm chúng ta ngạc nhiên là ông chịu nhận lời sang Âu châu một lần thứ hai trong vòng hai năm tới.
Một trong những lý do ảnh hưởng đến quyết định của ông là nhân dịp trên đường viếng thăm Palestine, ông có thể ghé qua Anh quốc. Ông đã mong chờ điều này từ lâu để khi có cơ hội đến thì nắm lấy. Có những lúc tấm lòng ông thổn thức khi ông thực hiện chuyến hành hương đi trên những đường phố thiêng liêng và nhưng nơi đất thánh trong câu chuyện Phúc âm.
Lần này ông không ghé Hoa kỳ nhưng viếng thăm nhiều nước Âu châu trước khi kết thúc chuyến đi Anh quốc, Pháp, Thụy sĩ, Hòa lan, Thụy điển, Ðan Mạch, Ðức quốc, tất cả các nơi đều tiếp đón chu đáo và kính nể. Nhưng vừa lúc ông đến Anh quốc thì ông bị đuối sức. Viêc chính của ông tại Anh quốc là tham dự những buổi hội họp được sắp sẵn. Ông thường quen nói chuyện trong những đại hội về sự sâu nhiệm của đời sống thuộc linh hơn là nói chuyện tổng quát trước công chúng. Chính ông cũng nghi ngờ rằng không biết mình có đạt được thành quả tốt đẹp nhân chuyến viếng thăm này không. Tuy nhiên, sự thách thức cho Giáo Hội thật là dữ dội và ảnh hưởng ông trên từng cá nhân thật không thể tính được. Chính dáng điệu của ông làm cho lời nói của ông có uy quyền. Người đầy tớ mở cánh cửa trước rồi chạy vào báo cho bà chủ rằng Chúa Jesus đã đến nhà và những đứa trẻ con chơi với Ngài trên thảm, sau lại muốn Chúa Jesus đưa các trẻ đó vào giường ngủ. Ðó là cách trình bày duy nhất bằng lời mà ai đã gặp ông cũng đều nghĩ như vậy. Cái dáng dấp giống Chúa Jesus của ông cũng hòa hợp với đức tính hiền hòa và uy quyền trên thái độ và tinh thần.
Không có gì làm cho ông đau buồn bằng sự chia rẽ và sự không đoàn kết của các Hội Thánh Tây Phương. “ Làm thế nào những Cơ đốc nhân vào sống với nhau trong nước thiên đàng khi mà họ không thể sống chung với nhau ở trần gian?” Ông hỏi đi hỏi lại như vậy.
Ông ao ước một ngày các Hội Thánh hiệp một. Ông trở về Ấn độ vào năm 1922, dù có thể ông không biết nhưng một vài tín hữu Cơ đốc người Ấn thân thích của ông ở miền Nam đã bàn đến và lập kế hoạch cho sự hợp nhất ấy. Thật ra chưa có hình thức cụ thể nào trong Hội thánh miền Nam Ấn cho đến hai mươi năm sau khi Sadhu qua đời, nhưng gương của ông với lời kêu gọi đã dự phần trong việc củng cố Hội Thánh mà ông đã từng mơ ước.