Nghiên cứu về sự sụp đổ của các nền văn minh được cho là một hiện tượng phức tạp được các nhà xã hội học, sử học, khảo cổ học và các học giả khác xem xét bằng cách sử dụng nhiều lý thuyết và phương pháp luận khác nhau.
Những học giả này nghiên cứu các động lực kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, bên ngoài, chu kỳ và công nghệ. Bằng cách xem xét các yếu tố khác nhau này, các học giả muốn tìm hiểu các quá trình đa dạng dẫn đến sự sụp đổ của các nền văn minh.
Tuy nhiên, Kinh Thánh đưa ra câu trả lời đơn giản hơn nhiều về lý do khiến các nền văn hóa sụp đổ với cái kết là đống tro tàn của lịch sử.
Hiểu biết về sự sụp đổ của các nền văn minh
Trong cuốn sách “Những Thần Tượng Hủy Diệt” của ông, Tiến sĩ Herbert Schlossberg cho rằng:
“Thay vì những phép loại suy này [của các học giả], lời giải thích trong Kinh thánh về sự kết thúc của xã hội sử dụng khái niệm phán xét. Nó mô tả chúng [các nền văn minh] hoặc đã phục tùng Đức Chúa Trời hoặc đã nổi loạn chống lại Ngài… Cựu Ước miêu tả Y-sơ-ra-ên đã trở thành một quốc gia tà ác, hoàn toàn xứng đáng với sự phán xét mà Đức Chúa Trời giáng cho nó. Sự phản loạn chống lại Đức Chúa Trời đi kèm với việc quay sang thờ thần tượng, và việc thờ hình tượng này đã đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Tiên tri Ô-sê nói: “Chúng lấy bạc vàng của mình làm thần tượng. Để chúng bị hủy diệt.” (Ô-sê 8:4).
“Thần tượng theo ý nghĩa sâu rộng hơn được hiểu đúng là lấy bất kỳ những gì được tạo ra để thế chỗ của Đấng Tạo Hóa. Người ta có thể tôn thờ thiên nhiên, tiền bạc, con người, quyền lực, lịch sử hoặc các hệ thống chính trị xã hội thay vì Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo ra tất cả chúng. Đặc biệt, các tác giả Tân Ước đã thừa nhận rằng mối quan hệ không nhất thiết phải rõ ràng là sự thờ phượng mang tính tà đạo; một người đàn ông có thể đặt bất kỳ ai hoặc bất cứ thứ gì lên trên đỉnh kim tự tháp giá trị của mình và đó chính là điều tận cùng mà anh ta phục vụ. Sự tận cùng của việc phục vụ đó ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của anh ta. Khi xã hội xung quanh anh ta cũng quay lưng lại với Đức Chúa Trời để đến với những thần tượng, thì đó là một xã hội thờ thần tượng và do đó nó đang hướng tới sự hủy diệt”. [1]
Quan điểm Kinh Thánh về sự suy thoái xã hội
Điều răn đầu tiên trong Mười điều răn lớn của Đức Chúa Trời là “Trước mặt ta, ngươi không được có thần nào khác” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:3). Điều răn này không thừa nhận sự hiện hữu của các thần linh khác như là những thực thể có thật. Thay vào đó, nó nhấn mạnh sự thờ phượng và sùng kính độc quyền đối với một Đức Chúa Trời thật. Không có gì được cho phép đặt trước Ngài hoặc đứng đầu trong trái tim hoặc cuộc sống của một người. Chúa phải được yêu mến tột đỉnh vì Ngài là Đấng Tối Cao và đáng được tôn thờ và vâng phục một cách tột cùng.
John Calvin, nhà thần học và nhà cải chánh thế kỷ 16, đã nói: “Tâm trí con người giống như một kho tàng thờ thần tượng và mê tín; đến mức nếu một người tin vào suy nghĩ của chính mình thì chắc chắn rằng anh ta sẽ từ bỏ Chúa và tạo ra một thần tượng nào đó trong đầu mình.” [3]
Quan sát sâu sắc này đặc biệt đúng ngày nay. Thế giới phương Tây, từ lâu đã được định hình bởi các tiêu chuẩn của Cơ Đốc Giáo, giờ đây đang ở trong thời kỳ mà nhiều người mô tả là thời kỳ hậu Cơ Đốc Giáo. Sự thay đổi này thể hiện rõ trong việc xã hội ngày càng hướng tới các thần tượng hiện đại, đặt niềm tin vào những cấu trúc tạm bợ và không đáng tin cậy khác nhau hơn là vào những lẽ thật đời đời của Đức Chúa Trời. Khi các giá trị nền tảng của Cơ Đốc Giáo bị gạt sang một bên, ánh sáng dẫn đường từng dẫn dắt phương Tây qua nhiều thế kỷ phát triển sâu sắc về đạo đức và văn hóa bị mờ nhạt đi trong mỗi ngày. Tình huống này thách thức chúng ta xem xét lại nguồn gốc của niềm tin sâu sắc nhất và bản chất thực sự của lòng trung thành tuyệt đối của chúng ta.
Những thần tượng của xã hội hiện đại
Hãy xem xét bảy thần tượng phổ biến này trong xã hội ngày nay mà mọi người thường đặt ưu tiên cho chúng hơn các giá trị thuộc linh. Mặc dù những điều này thực sự có tầm vóc riêng của chúng, nhưng những điều khác của chúng có thể gợi lên những thế lực thờ thần tượng có ảnh hưởng khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm của họ. Dù vậy, bảy thần tượng này dường như nổi bật nhất trong nền văn hóa phương Tây và những thần tượng tiềm năng khác được đề cập có thể sẽ thuộc một trong những hạng mục này.
CHỦ NGHĨA NHÂN BẢN.
Định nghĩa và niềm tin:
Chủ nghĩa nhân bản là một cách tiếp cận cuộc sống tập trung vào tính hợp lý, đạo đức và công lý của con người mà không liên hệ gì đến thần thánh. Thế giới quan này ủng hộ sự ưu việt của lý trí, khám phá khoa học và đạo đức dựa trên nền tảng là con người. Mặc dù hầu hết chủ nghĩa nhân bản thường mang tính thế tục, nhưng đôi khi nó có thể gắn bó với niềm tin tôn giáo, tuy nhiên, cách tiếp cận của nó vẫn lấy con người làm trung tâm, phủ nhận quyền tể trị và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Tác động đến xã hội:
Cơ Đốc Giáo Cấp Tiến (Progressive Christianity) là một ví dụ vững chắc về sự tích hợp của chủ nghĩa nhân bản với tôn giáo, cụ thể hơn là tôn giáo Cơ Đốc. Nói chung, những Cơ Đốc Nhân cấp tiến coi Kinh Thánh chỉ đơn giản là một tuyển tập các công trình viết về lịch sử và đạo đức chứ không phải là Lời không thể sai trật và không thể sai lầm của Đấng Toàn Năng. Họ thường đặt ưu tiên cho trải nghiệm của con người đương đại và tư tưởng hợp lý khi giải thích Kinh Thánh, hạ thấp và diễn giải lại các khía cạnh của Kinh Thánh công bố quyền thống trị và khả năng kỳ diệu của Chúa.
Ngược lại, thế giới quan theo Kinh Thánh nhấn mạnh đến thẩm quyền của Chúa và thẩm quyền không thể so sánh được của Ngài – không có gì là không thể đối với Chúa. Nó nhấn mạnh Kinh Thánh là tiêu chuẩn không thể sai lầm cho lẽ thật, dựa vào đó mà mọi tuyên bố về lẽ thật đều phải được đo lường. Mặc dù loài người được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời với giá trị và phẩm giá vô giá, nhưng loài người vẫn sa ngã và tan vỡ ở mọi cấp độ, chết về mặt thuộc linh trong tội lỗi và một cách tuyệt vọng cần được cứu chuộc qua Đấng Christ. Khả năng của con người là hữu hạn, còn khả năng của Chúa là vô hạn.
Quan điểm này khuyến khích các cá nhân từ chối việc dựa vào lý luận thiếu sót của chính mình, đồng thời thừa nhận rằng trí tuệ con người, dù chỉ số cao đến đâu, vẫn bị khiếm khuyết nghiêm trọng vì tội lỗi, và do đó không phải là nguồn cuối cùng để phân biện ra lẽ thật. Thay vào đó, phúc lợi thực sự của con người và trách nhiệm đạo đức bắt rễ từ mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời toàn tri và việc tuân thủ các điều răn của Ngài, được hướng dẫn qua lời cầu nguyện và Kinh Thánh.
Kinh Thánh dạy:
“5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va,
Đừng nương cậy nơi sự thông sáng của con.
6 Hãy nhận biết Ngài trong mọi đường lối của con,
Chính Ngài sẽ san bằng các nẻo con đi.
” (Châm ngôn 3:5-6).
Ví dụ hủy diệt tiêu biểu,
Có lẽ ví dụ tiêu cực nhất của quan điểm nhân bản là sự chủ trương của họ cho cái gọi là quyền sinh sản thông qua việc phá thai. Họ lập luận dựa trên các nguyên tắc quyền tự quyết cá nhân, chủ quyền cơ thể và bình đẳng giới tính, để khẳng định rằng phụ nữ nên có quyền đưa ra quyết định về cơ thể của mình mà không bị nhà nước hoặc ảnh hưởng tôn giáo can thiệp.
Những người theo chủ nghĩa nhân bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp cận phá thai đối với sức khỏe phụ nữ và sự ổn định kinh tế xã hội, bác bỏ những phản đối về tôn giáo dựa trên những lời dạy trong kinh thánh. Thay vào đó, họ tin rằng các quyết định mang tính đạo đức phải hoàn toàn dựa trên những cân nhắc hợp lý. Tuy nhiên, quan điểm này bác bỏ những luận điểm thiêng liêng cho rằng sự sống con người sở hữu giá trị nội tại từ thời điểm thụ thai và phủ nhận khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa mới nắm giữ chìa khóa của cả sự sống và cái chết.
Ê-va là nhà nhân văn đầu tiên. Cô tin vào lập luận thế tục, “Bạn sẽ giống như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác” (Sáng thế ký 3:5). Nói cách khác, cô nghĩ mình có thể đạt được sự khôn ngoan và thực hiện cuộc sống của mình mà không cần Chúa hay tôn giáo chân chính. Ê-va là người đầu tiên không chống nổi sự tôn thờ bản thân, và A-đam nhanh chóng làm theo cô trong lỗi lầm tương tự. Mọi hình thức đau khổ mà nhân loại biết đến – về thể chất, tình cảm, xã hội và tinh thần – đều bắt nguồn từ hành động ban đầu này của A-đam và Ê-va, những người đã chọn tin tưởng vào sự hiểu biết của chính mình hơn là nhận biết Chúa và những chỉ thị nhân ái của Ngài.
Thật không may, chủ nghĩa nhân văn ngày nay là một thần tượng quái dị và chết chóc. Schlossberg đã viết: “Một khi một người tự hào hào phóng những xuất sắc thần học trên chính con người mình, anh ta sẽ ít có khả năng nghi ngờ rằng có một tiêu chuẩn hành vi khắt khe hơn tiêu chuẩn của anh ta hoặc rằng một thẩm phán công bình đang quan sát hành động của anh ta”. [2]
(XEM TIẾP PHẦN 2)
Naphtali (BBT
Lược Dịch Theo Nguồn: https://www.christianpost.com