Chương 5
‘Cho Đến Khi’ Lần Thứ Ba
Cho Đến Khi Hội Thánh Được Thiết Lập
“…Thưa anh em, tôi muốn anh em hiểu sự mầu nhiệm này, để anh em không tự cho mình là khôn ngoan: đó là một phần dân Y-sơ-ra-ên cứ cứng lòng cho đến khi số dân Ngoại gia nhập đầy đủ. Như vậy cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như có lời chép: “Đấng Giải Cứu sẽ đến từ Si-ôn; cất bỏ sự vô đạo khỏi nhà Gia-cốp.” Và đây là giao ước Ta lập với họ, khi Ta xóa bỏ tội lỗi họ.” (Rô-ma 1:25-27)
Cơ Đốc nhân thường thảo luận về việc liệu có cần phải công bố Phúc Âm cho Y-sơ-ra-ên hay không? Có nên sai phái các giáo sĩ đến với người Do thái hay không? Liệu chúng ta có giữ lại điều quan trọng nhất nếu chúng ta không cố gắng đưa người Do Thái đến với đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ chăng?
Trong suốt nhiều thế kỷ, có những người Do Thái đã tin Chúa Giê-xu. Nhưng phần lớn, người Do Thái không tin Ngài, mặc dù bây giờ một số người có thể xem Ngài là một Ra-bi Do Thái quan trọng, mặc dù không tin Ngài là Con Đức Chúa Trời đã chết vì tội lỗi của thế gian, và tội lỗi của Y-sơ-ra-ên. Ngày nay thậm chí một người Do-thái vẫn nghiên cứu kinh thánh Tân Ước tại Đại học Hê-bơ-rơ ở Jerusalem. Các giáo sư của là những người Do Thái, những chuyên gia về các lời dạy dỗ của Ra-bi thế kỷ thứ nhất Sau Công Nguyên! Họ không phải là Cơ Đốc nhân Do thái, mà là các học giả Do Thái, những người xem Chúa Giê-xu và kinh thánh Tân Ước là những sự dạy dỗ rất thú vị và có tính nguyên thủy của các Ra-bi – cũng như một phần trong Do thái giáo vậy!
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, có khoảng ba nghìn người Do Thái tin và chịu báp-têm (Công vụ 2:41). Sự ra đời của hội thánh Cơ Đốc đã trở thành một sự việc có tính riêng biệt của người Do thái – những tín hữu mới này là người Do thái và người ngoại bang đã hoán cải sang Do thái giáo (Công-vụ 2:10). Các môn đồ, những người theo Chúa Giê-xu, những người bạn của Ngài, những người sau khi nhận sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh đã trở thành những người được sai đi (các sứ đồ), tất cả đều là người Do thái. Há chẳng phải mãi đến Công-vụ 10 chúng ta mới nghe nói về sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh trên người không phải là người Do-thái, dân ngoại. Khi vị đội trưởng La mã, Cọt-nây, và tất cả những người nghe sự rao giảng Phúc Âm của Phi-e-rơ, đã kinh nghiệm sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh theo cùng cách giống như người Do thái và những người người mới vào đạo – những người ngoại bang đã hoán cải theo Do-thái giáo – tại Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ và các tín hữu từ phe cắt bì (những người tin Chúa Giê-xu) đã kinh ngạc (Công-vụ 10:44-48)! Bây giờ chúng ta hãy quan sát kĩ hơn một chút. Chuyện đó đã xảy ra như thế nào?
ĐỨC THÁNH LINH
Trong Lễ Ngũ Tuần, chỉ có người Do thái và những người người mới vào đạo đã có mặt ở Giê-ru-sa-lem khi Đức Thánh Linh giáng lâm. Lễ Ngũ Tuần chính là lễ hội Shavouoth của người Do thái, Lễ Tiệc Các Tuần, được cử hành để nhắc nhở sự ban hành luật pháp, và là Lễ hội Mùa gặt. Những người người mới vào đạo là những người ngoài dân Do thái đã hoán cải sang Do thái giáo và do đó đã trở thành người Do Thái. Thậm chí ngày hôm nay nếu bạn muốn, bạn vẫn có thể trở thành người Do Thái, ngay cả dù bạn đã được sinh ra là người ngoại đạo, nếu bạn muốn, bạn vẫn có thể trở thành người Do thái. Bạn phải vượt qua một số bài kiểm tra của các Ra-bi – và nếu bạn là nam giới, bạn phải chịu phép cắt bì – và sau đó bạn được xem là một người Do Thái thực thụ.
Bạn mong đợi ai sẽ có mặt tại một lễ hội Do Thái như vậy, được cử hành tại đền thờ của người Do thái tại thành Giê-ru-sa-lem ở Y-sơ-ra-ên? Dân ngoại phải không? Không, tất nhiên là không: đó phải là người Do Thái! Công-vụ 2:5 và 9-11 nói, “…Bây giờ, có những người Do thái sùng đạo từ các dân trong thiên hạ về đang lưu trú tại Giê-ru-sa-lem”. Giống như Bữa Tiệc tối cuối cùng (tiệc thánh – Pesach), Lễ Ngũ Tuần (Shavouoth) trong Công-vụ 2 hoàn toàn là chuyện của người Do thái. “Người Bạt-thê, Mê-đi, Ê-la-mít, kẻ ở tại Mê-sô-pô-ta-mi, Giu-đê, Cáp-ba-đốc, Pông, A-si-a, Phi-ri-gi, Pam-phi-ly, Ai-cập, các vùng thuộc Li-by gần Sy-ren, nào du khách từ Rô-ma đến, cả người Do-Thái hoặc người theo đạo Do-Thái, người Cơ-rết và Ả- rập nữa; – chúng ta đều nghe họ dùng ngôn ngữ của chúng ta mà nói về những việc quyền năng của Đức Chúa Trời!”
Vì vậy đã có những người Do thái trong Lễ Ngũ Tuần, và những người mới vào đạo – những người ngoại bang đã trở thành người Do Thái, và kể từ đó, cũng là người Do Thái thực thụ. Họ đã đến Giê-ru-sa-lem để ăn mừng Lễ hội Do Thái này từ tất cả các miền đất của Đế quốc La Mã. Và đột nhiên Đức Thánh Linh tuôn đổ trên một số người trong số họ. Sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh vẫn là việc của người Do thái! Với việc Đức Thánh Linh đổ xuống trên 120 người Do Thái (chúng ta thu thập được con số này trong Công vụ 1:15) trong số hơn một triệu người Do Thái đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem để ăn mừng lễ ‘Shevouoth’ của người Do Thái – theo sử gia người Do-Thái – Josephus Flavius - Giao ước mới được đóng dấu. Những dấu hiệu của Giao ước mới là thân thể bị bầm dập và máu tuôn tràn của Chúa Giê-xu. Giao ước mới được đóng dấu bởi sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh, so sánh với Ê-phê-sô 1:13. Kể từ đó trở đi, Đức Thánh Linh luôn hiện diện để áp làm thành những gì Chúa Giê-xu đã bắt đầu trong đời sống của con người theo một cách cá nhân thông qua việc mặc khải và ứng dụng. Một người có thể được tái sinh! Tuy nhiên, một lần nữa, đó vẫn chỉ là việc của người Do thái: Giao ước mới được lập với Nhà Y-so-ra-ên và Nhà Giu-đa.
Nhưng tại thời điểm này Đức Thánh Linh chưa tuôn đổ trên TẤT CẢ mọi loài xác thịt, như Giô-ên 2:28-32 đã nói tiên tri – được sứ đồ Phi-e-rơ trích dẫn khi biến cố này xảy ra. Công-vụ 2:16-18 nói: “đây là điều Chúa đã phán qua tiên tri Giô-ên”: Đức Chúa Trời phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên mọi xác thịt. Các con trai và con gái ngươi sẽ nói tiên tri, thanh niên sẽ thấy khải tượng, và người già sẽ thấy chiêm bao. Phải trong những ngày đó, Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên các đầy tớ trai và gái Ta, và họ sẽ nói tiên tri.” Nhưng điều đó đã không xảy ra ở Giê-ru-sa-lem trong Lễ Ngũ Tuần. Vâng, đúng là Thánh Linh tuôn đổ trên tất cả mọi người theo ý nghĩa là có đủ các thành phần ‘con trai và con gái’, ‘thanh niên và người già’, ‘đầy tớ, nam với phụ nữ ‘. Nhưng Thánh Linh không tuôn đổ trên tất cả 1.000.000 người Do Thái đã có mặt tại Giê-ru-sa-lem vào lúc đó theo Josephus Flavius nói - cũng như không tuôn đổ trên cả dân Do Thái sống ở Y-sơ-ra-ên. Trong câu 19-21, Phi-e-rơ tiếp tục trích dẫn lời tiên tri Giô-ên, “Ta sẽ làm những phép mầu trên trời và những dấu lạ ở dưới đất, tức là máu, lửa và luồn khói. Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng sẽ hóa ra máu trước ngày vĩ đại Chúa và vinh quang của Chúa đến. Và ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu“. Nhưng điều đó cũng chưa xảy ra vào ngày hôm đó.
Giô-ên 2:28 và 30-32 nói: “Và sau đó, Ta sẽ đổ Thần Ta trên mọi xác thịt. Ta sẽ cho xuất hiện những điềm lạ trên trời và dưới đất, là máu, lửa và trụ khói. Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng đỏ như máu trước khi ngày lớn và kinh khiếp của của Đức Giê-hô-va đến”. Bây giờ, ai kêu cầu danh Đức Giê-hô-va đều sẽ được cứu; Trên núi Si-ôn và trong Giê-ru-sa-lem, sẽ có những người được cứu thoát, và trong số những sống sót, sẽ có người mà Ðức Giê-hô-va kêu gọi.” Những điều đó có thể sẽ xảy ra vào Ngày vĩ đại và vinh quang của Chúa hiện đến. Đó là lý do tại sao Chúa đưa dân Do Thái trở về Đất Hứa ngày hôm nay. Bởi vì Ngài muốn gặp họ ở đó, ban cho họ sự mặc khải đầy đủ về chính Ngài bằng cách tuôn đổ Đức Thánh Linh, và sau đó Ngài đến và thiết lập Vương Quốc của Ngài tại Y-sơ-ra-ên và trên khắp thế giới mãi mãi. Và có lẽ vào thời điểm đó, các dấu hiệu mặc khải nầy cũng sẽ xảy ra. Vì vậy, sự tuôn đổ Đức Thánh Linh vào ngày Lễ Ngũ Tuần là sự tuôn đổ chỉ trên người Do Thái mà thôi!
BÂY GIỜ VỀ CHÚNG TA LÀ DÂN NGOẠI THÌ THẾ NÀO?
Bây giờ bạn có thể hỏi: “Nhưng còn về chúng ta, dân ngoại thì sao? Chúng ta ở đâu trong bức tranh đó? Chẳng có gì cho chúng ta sao?” Chúng ta, Dân Ngoại, phải chờ đợi đến Công vụ 10. Cuối cùng!- chúng ta gặp một người đàn ông từ nước Ý, mang tên là Cọt-Nây! Một người ngoại bang. Một người có học thức. Rõ ràng ông có một sự ngưỡng mộ lớn đối với đức tin Do Thái. Ông ngưỡng mộ khái niệm về Một Đức Chúa Trời vô hình, công nghĩa, Đấng sáng tạo ra trời và đất, thay vì tất cả những vị thần La Mã và Hi Lạp mà ông ta biết từ thuở còn thơ trong thế giới Hi Lạp-La Mã. Và ông ngưỡng mộ lối sống của người Do Thái! Những điều đạo đức tốt đẹp này dựa trên 10 Điều Răn. Không nói dối, không lừa đảo, không giết người, không ngoại tình, hiếu kính cha mẹ … Ông ta chưa trở thành người Do Thái, chưa cải đạo. Nhưng ông đã bắt đầu hỗ trợ tài chánh cho những người nghèo khổ trong các nhà hội. Và ông đã bắt đầu cầu nguyện với Đức Chúa Trời vô hình này. Và rồi Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến cùng ông.
Thiên sứ chỉ có một thông điệp: “Bây giờ hãy sai người đến thành Gióp-bê mời Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ. Ông ấy đang ở với Si-môn, thợ thuộc da nhà ở gần biển. Ông ấy sẽ nói thêm cùng ông.” Nhưng Phi-e-rơ sẽ không bao giờ đến đó. Ông không hề muốn bước chân vào nhà của một người ngoại bang, để mình không bị ô uế. Phi-e-rơ sống theo luật thanh tẩy của người Do-thái. Phi-e-rơ cũng ăn ‘kosher’. Chỉ ăn thịt động vật tinh sạch và các luật khác về chế độ ăn uống. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải làm một điều gì đó đặc biệt đối với Phi-e-rơ. Và Ngài đã làm. Phi-e-rơ nhìn thấy tấm khăn lớn có các động vật tinh sạch và các động vật ô uế, và ông nghe tiếng phán: “Hãy làm thịt, và ăn đi!” Phi-e-rơ nói. “Chúa ơi, con sẽ không làm thế”, Phi-e-rơ nói: “con đã sống bằng ‘kosher’ cả đời và con không thể ăn động vật không tinh sạch được đâu”. Chúa phải lặp lại cùng một khải tượng đến ba lần. Cuối cùng, điều đó bắt đầu hé mở cho Phi-e-rơ rằng Chúa có thể có ngụ ý gì khác hơn là ‘ kosher về phương diện thực phẩm’. Có lẽ Ngài có ngụ ý đến ‘kosher về phương diện con người’! Bởi vì khi các sứ giả của Cọt-nây đến, Phi-e-rơ hiểu rằng ông ta phải đi cùng họ.
Phi-e-rơ đem theo một số người Do–Thái theo Đấng Mê-si-a (Cơ-Đốc nhân). Họ vào nhà Cọt-nây. Phi-e-rơ bắt đầu giảng Tin Lành. Và ngay cả trước khi ông nói xong, có điều gì đó đáng kinh ngạc đã xảy ra. Cọt-nây, viên đội trưởng ngoại bang, người La-mã đến từ nước Ý, kinh nghiệm sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh trên chính mình và trên tất cả những người ở với ông, trên những người ngoại đạo/ những người ngoại bang – khiến những tín đồ chịu cắt bì và thậm chí cho chính Phi-e-rơ rất đổi kinh ngạc! Công-vụ 10:44-47 chép: “Khi Phi-e-rơ còn đang nói thì Đức Thánh Linh giáng trên mọi người nghe đạo. Các tín hữu chịu cắt bì, là những người cùng đi với Phi-e-rơ, đều KINH NGẠC vì quà tặng của Đức Thánh Linh cũng được đổ trên CÁC DÂN NGOẠI nữa. Các tín hữu đó nghe họ nói tiếng lạ và ca ngợi Đức Chúa Trời. Bấy giờ Phi-e-rơ nói, “ai có thể từ chối báp-tem bằng nước cho những người đã nhận lãnh Đức Thánh Linh cũng như chúng ta chăng (là người Do-Thái, trước đây tại Giê-ru-sa-lem trong thời của Công vụ 2)”.
Trên người ngoại bang! Đức Thánh Linh giáng trên người không phải gốc Do thái! Từ thời điểm đó, dân ngoại được thêm vào, được ghép vào Giao Ước Mới, được xác nhập với Nhà Y-sơ-ra-ên và Nhà Giu-đa, Giê-rê-mi 31:31-34, Lu-ca 22:20. Vì cớ phản ứng rất ngạc nhiên từ người Do thái theo Đấng Mê-si-a, nên rõ ràng là điều này chưa bao giờ xảy ra trước đây. Ở đây cánh cửa Giao Ước mới, được lập với Nhà Y-sơ-ra-ên và Nhà Giu-đa, giờ đây mở ra cho thế giới dân ngoại. Chúng ta, những người ngoại bang giờ đây được chào đón bước vào mối quan hệ mới này với Đức Chúa Trời qua đức tin nơi Chúa Giê-xu, trong Giao Ước Mới này – là giao ước đã được thực hiện với Nhà Y-sơ-ra-ên và Nhà Giu-đa.
Sự cải đảo bất ngờ này của Dân Ngoại đã làm dấy lên cuộc tranh cãi dữ dội giữa các Cơ Đốc nhân Do-thái. Liệu những người phi Do-thái, những người ngoại bang mà nay đã tin Chúa Giê-xu có phải giữ luật lệ Môi-se và 613 điều răn của Ra-bi không? Họ có nên ăn kosher không? Bởi đức tin của họ nơi Chúa Giê-xu, họ có thực sự trở thành người Do Thái không? Những người nầy có phải chịu phép cắt bì không? Liệu những người ngoại đạo cải đạo có nên trở thành những người Do Thái tuân theo luật pháp trong mọi khía cạnh chăng? Liệu họ có phải họ là một loại người mới vào đạo không? Bởi vì một số Cơ Đốc nhân Do Thái vẫn tiếp tục tuân giữ luật pháp của Môi-se, họ đòi hỏi những tín hữu mới trong Chúa Giê-xu này cũng phải được truyền bảo làm điều mà họ làm. “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môi-se thì không thể được cứu!” (Công-vụ 15:1). Họ nói, bạn có thể rơi vào nguy cơ lớn liên hệ đến sự cứu rỗi nếu bạn không vâng giữ Torah (Ngũ kinh) của Môi-se. Một số Cơ Đốc Do Thái nói, bạn đã đến bằng đức tin nơi Đấng Christ để thờ phượng Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, là Đức Chúa Trời có một và duy nhất, Đấng tạo thành trời đất. Do đó bạn cũng phải trở thành người Do Thái nữa. Công vụ 15:1: “có mấy người từ Giu-đê đến và dạy các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật lệ Môi-se thì không thể được cứu!” Và Công vụ 15:5 chép: “Nhưng có mấy tín hữu thuộc thuộc phái Pha-ri-si (những Cơ Đốc nhân Do Thái như Phao-lô, thuộc về đảng Pha-ri-si nghiêm khắc và tuân giữ luật pháp) đứng dậy nói: phải làm cắt bì cho những người ngoại, và truyền họ phải tuân giữ luật pháp Môi- se.”
Các sứ đồ và các trưởng lão cùng họp lại thảo luận với nhau về sự việc rất nghiêm túc này: Có nên yêu cầu những tín đồ dân ngoại tuân giữ luật pháp của Môi-se không? Liệu họ – qua đức tin nơi Đấng Christ – cũng trở thành người Do thái hay sao? Những người nam có nên chịu phép cắt bì không? Họ có nên giữ luật pháp của Môi-se, và tất cả các tập tục Do Thái không? Chúng ta hãy lắng nghe Công-vụ 15:6-12: “Các sứ đồ và các trưởng lão họp lại để xem xét vấn đề này. Sau khi bàn luận kỹ lưỡng, Phi-e-rơ đứng dậy và nói với họ rằng: “thưa anh em, anh em biết rằng từ những ngày đầu Đức Chúa Trời chọn tôi trong số các anh em, để qua môi miệng tôi, những người ngoại được nghe sứ điệp Tin Lành và tin. Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng mọi người, đã chứng tỏ Ngài chấp nhận họ khi ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta (người Do-thái). Ngài chẳng phân biệt chúng ta (người Do-Thái) với dân ngoại đâu, Nhưng Ngài tẩy sạch lòng họ bởi đức tin. Vậy bây giờ, tại sao anh em dám thử Đức Chúa Trời, gán cho các môn đồ cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta cũng không thể mang nỗi? Trái lại, chúng ta tin rằng nhờ ân điển Chúa, là Đức Chúa Giê-xu, chúng ta được cứu cùng một cách như họ (dân ngoại) vậy”. Điều đó đã giải quyết sự việc. “Cả hội nghị đều im lặng lắng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và phép mầu mà Đức Chúa Trời đã dùng hai ông thực hiện giữa các dân ngoại”. Sau đó, Gia-cơ, em của Chúa Giê-xu, nói: “thưa các anh em, chúng ta biết thế nào “một ngày kia Đức Chúa Trời thăm viếng các dân ngoại, nhóm lại một dân cho danh Ngài, nên chúng ta nên lắng nghe các tiên tri của chúng ta.”
Công-vụ 15:13-18 nói: “Khi họ dứt lời, Gia-cơ nói: Thưa anh em, xin hãy nghe tôi. Si-môn (Phi-e-rơ) đã thuật lại thế nào Đức Chúa Trời lần đầu tiên thăm viếng các dân ngoại, để từ họ lấy ra một dân cho danh của Ngài. Điều đó phù hợp với lời các nhà tiên tri đã chép: “Sau các việc nầy Ta sẽ trở lại, tái thiết nhà của Đa–vít đã bị sụp đổ. Ta sẽ trùng tu những nơi bị tàn phá, và phục hồi nó, để những người còn lại, và tất cả các dân ngoại được gọi bằng danh Ta, đều tìm kiếm Chúa. Chúa là Đấng đã thực hiện những việc ấy phán như vậy. Đó là những việc đang biết đến từ nghìn xưa”.
Gia-cơ nói thêm, “Mong dân Ngoại tránh những điều thực sự là kinh tởm đối với chúng tôi, người Do Thái. Chúng tôi muốn sống hiệp nhất với anh em – như một người mới trong Đấng Christ – mặc dù vậy chúng tôi vẫn sẽ gắn bó với các tập tục và lối sống của người Do Thái. Vì vậy, hãy kiềm chế những điều quá khó chịu đối với chúng tôi, người Do Thái. Các anh em, là dân ngoại được chào đón ở giữa vòng chúng tôi, nhưng chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc sống của chúng tôi theo những truyền thống và thói tục Do Thái như chúng tôi luôn luôn có. Chúng tôi muốn hiệp nhất với các anh em trong đức tin nơi Chúa Giê-xu, rằng tất cả chúng ta đều chia sẻ và kinh nghiệm bởi sự hiệp nhất trong Đức Thánh Linh. Nhưng vui lòng hiểu những cảm xúc của chúng tôi về một số điều.”
Công-vụ 15:19-21 chép: “Vậy, tôi xét thấy [Gia-cơ, em của Chúa Giê-xu, nói:] không nên quấy rối những người ngoại đang trở về với Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta nên viết thư dặn họ giữ mình khỏi bị ô uế bởi các thần tượng và sự gian dâm, cũng đừng ăn thịt thú vật chết ngạt và huyết. Vì từ các thế hệ xa xưa, trong mỗi thành, đều có những người giảng dạy luật pháp Môi-se và đọc luật ấy mỗi ngày Sa-bát trong các nhà hội“. Điều đó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Về sau, Phao-lô nói thêm: “Việc ăn thịt đã được hiến tế trong đền của các vị thần, các thần tượng Hi Lạp thì chẳng có gì là sai, khi người ta cầu xin sự ban phước của Chúa trên thịt đó. Đó là thịt tốt! Nhưng, khi tôi biết rằng làm như vậy gây vấp phạm cho một anh chị em trong Đấng Christ, tôi sẽ không ăn thịt đó nữa trong suốt quãng đời còn lại của tôi! Đối với tôi, sự hiệp nhất với anh chị em tôi trong Đấng Christ là quan trọng hơn những gì tôi có thể cho phép mình làm với một lương tâm trong sạch trước mặt Đức Chúa Trời.”
Ông nói trong 1 Cô-rinh-tô 10:23-11:1: “mọi sự đều được phép làm,’ nhưng không phải mọi thứ đều có ích” Mọi sự đều được phép làm,’ nhưng không phải mọi sự đều xây dựng. Đừng ai tìm kiếm lợi ích riêng cho mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Tất cả những gì bán ở hàng thịt, anh em cứ ăn, đừng gì lương tâm mà thắc mắc, vì, “quả đất và mọi vật chứa trong đó đều thuộc về Chúa”. Nếu có người không tin Chúa mời anh em, và anh em muốn đi thì cứ ăn tất cả những gì họ dọn ra, đừng vì lương tâm mà thắc mắc. Nhưng nếu có ai nói với anh em rằng: vật ấy đã cúng’, thì đừng ăn, vì người ấy đã báo tin cho anh em và vì lương tâm nữa- Tôi không nói về lương tâm anh em, nhưng về lương tâm người ấy. Vì tại sao sự tự do của tôi lại bị lương tâm kẻ khác xét đoán?” Nếu tôi tạ ơn rồi ăn thì tại sao tôi lại bị trách cứ về bữa ăn mà tôi đã tạ ơn? Vậy, anh em hoặc ăn hoặc uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh quang của Đức Chúa Trời. Đừng gây cớ vấp phạm, cho dù người Do Thái, người Hi Lạp hay là hội thánh của Đức Chúa Trời. Hãy như tôi, gắng sức làm đẹp lòng mọi người trong mọi việc, không tìm lợi riêng cho mình, nhưng cho nhiều người để họ có thể được cứu. Hãy noi gương tôi, như chính tôi noi gương Đấng Christ vậy.”
Khi những người có mặt với các sứ đồ tại hội đồng Giê-ru-sa-lem đã cố gắng giải quyết nan đề rằng liệu dân ngoại đã cải đạo, đã tin nơi Chúa Giê-xu, có nên tuân giữ luật pháp Môi-se không, kết luận cuối cùng là một tiếng “KHÔNG!” vang dội. Phi-e-rơ nói: “Vậy bây giờ, tại sao anh em dám thử thử Đức Chúa Trời, gán cho các môn đồ [dân ngoại] cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta không thể mang nổi?” Tuy nhiên, để không gây vấp phạm anh chị em Cơ Đốc nhân Do Thái, những Cơ Đốc nhân ngoại bang này được yêu cầu tự nguyện, “giữ mình khỏi bị ô-uế bởi các thần tượng, và sự gian dâm, cũng đừng ăn thịt thú vật chết ngạt và huyết.“(Công-vụ 15:19-20). Đây là những quy tắc chung áp dụng cho khách lạ sống trong Y-sơ-ra-ên (Lê-vi-kí 17:10-16), nhưng luật Môi-se không được áp đặt trên Cơ Đốc nhân ngoại bang. Luật pháp được duy trì trong nhà hội Do thái là đủ rồi.
Do đó có giả định rằng nhà hội nên tồn tại song song với hội thánh Cơ Đốc. Gia-cơ, em của Chúa Giê-xu nói “Vì trải qua bao nhiêu đời nay đều có những người giảng dạy luật pháp Môi-se và đọc luật ấy vào mỗi ngày Sa-bát trong các nhà hội” (Công-vụ 15:21). Cả hội thánh và nhà hội đều đã tiếp tục trải qua lịch sử, trên khắp thế giới, đôi khi trong một cách xúc động và đôi khi theo một cách đau đớn xé lòng. Vì vậy, bây giờ sự việc đã rõ ràng. Những người ngoại đạo tin Chúa Giê-xu, không cần phải trở thành người Do thái. Họ sẽ không bị yêu cầu giữ luật pháp và tập quán của Môi-se, và họ sẽ không bị buộc phải chịu phép cắt bì. Bây giờ Phúc Âm có thể được rao giảng đến tận cùng trái đất. Dân ngoại có thể bước vào mối quan hệ Giao Ước Mới với Đức Chúa Trời, Giao Ước Mới được lập với Nhà Y-sơ-ra-ên và Nhà Giu-đa.
Một người có thể nghĩ rằng Chúa đã chọn Cọt-nây để công bố sứ điệp này. Rốt lại, là một người Rô-ma, ông đã quen với tư duy Hi- Lạp và La- Mã, ông đã trở thành một tín hữu của Chúa Giê-xu Christ, và được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giống như những tín hữu Do Thái ở Giê-ru-sa-lem hôm Đức Thánh Linh giáng lâm trong lễ Ngũ Tuần. Giám đốc của các hội truyền giáo hiện đại chắc hẵn sẽ quyết định bổ nhiệm một người như thế làm sứ đồ đầu tiên cho Dân Ngoại. Nhưng thay vào đó, Chúa đã chọn một Ra-bi Do Thái, Sau-lơ của Tạt-sơ, và tự mặc khải chính mình Ngài ra với ông để dùng ông làm sứ đồ cho Dân Ngoại. Phương thức là người Do Thái rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại- “…sự cứu rỗi đến từ người Do Thái” (Giăng 4:22) – ngay lập tức trở nên sáng tỏ.
Đó là cách Đức Chúa Trời hành động. Sự cứu rỗi lan ra khắp thế giới qua Y-sơ-ra-ên. Sự cứu rỗi từ người Do Thái (Giăng 4:22). Sau-lơ trở thành Phao-lô – tên ông có nghĩa là ‘nhỏ bé’. Chúa Giê-xu đã hiện ra với ông trong nhiều dịp. Lần đầu tiên là qua sự cải đạo của ông trên đường đi Đa-mách (Công-vụ 9:3-9, 22:3-16, 26:9-18) khi ông vẫn là một người ghét Đấng Christ, đang rượt đuổi các Cơ Đốc nhân, bức hại và bắt giam họ (Công-vụ 9:1-2), ông có mặt khi họ bị hành quyết (Công-vụ 7:54-8: 3), và đã hoàn toàn tán thành điều đó (Công-vụ 26:9-10). Nhưng Chúa cũng đã hiện ra với ông khi ông ta ở một mình trên sa mạc để chuẩn bị cho sự kêu gọi ông trở thành một sứ đồ. Và vào những dịp khác. Sau đó, Phao-lô đã viết về thời điểm đó: “Nhưng khi Đức Chúa Trời, Đấng đã biệt riêng tôi từ trong lòng mẹ và lấy ân điển gọi tôi, vui lòng bày tỏ Con Ngài cho tôi để tôi rao truyền tin mừng về Con Ngài giữa dân ngoại (Công-vụ 9:15, 13:44-49, 22:21), thì lập tức tôi không bàn với loài người. Tôi cũng không lên Giêrusalem để gặp các vị sứ đồ trước tôi [và do đó tôi đã không phải là sinh viên của Phi-e-rơ, hoặc Giăng, hay Gia-cơ, để sứ điệp của tôi không phải là lời dùng rồi], nhưng tôi đi qua miền Ả Rập, sau đó trở lại Đa-mách“(Galati 1:15-17). Sau đó, Phao-lô thăm Phi-e-rơ ở Giê-ru-sa-lem trong mười lăm ngày và cũng gặp Gia-cơ, em của Chúa (Ga-la-ti 1:18-19). Nhưng nhìn chung, Phao-lô trông rất lạ lẫm với cộng đồng Cơ-Đốc nhân. Họ chỉ biết rằng ông là người đã cố gắng tiêu diệt họ nhưng bây giờ lại rao giảng Phúc Âm! Ông đã thay đổi từ một người ghét Đấng Christ thành người công bố Phúc Âm.
NHÂN CHỨNG BẰNG MẮT VÀ TAI
Để hội đủ điều kiện làm một sứ đồ đích thực, người ấy phải là một chứng nhân bằng mắt và tai về Chúa Giê-xu. Không có chuyện bịa đặt khéo léo, không có thần học hay triết học tưởng tượng, mà là các nhân chứng của sự thật!
Khi mười hai môn đồ mất Giu-đa qua việc ông phản bội Chúa Giê-xu và sự tự vẫn của ông về sau này, họ đã chọn một sứ đồ mới, người thứ mười hai. Yêu cầu chính đối với vị trí này, cuối cùng đã dành cho Ma-thia, là người “từng ở với chúng ta trong suốt thời gian Chúa là Đức Chúa Giê-xu đi lại giữa chúng ta, từ khi Ngài được Giăng làm báp têm cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng ta, phải có một người cùng với chúng ta làm chứng về sự sống lại của Ngài.“(Công-vụ 1:15-26). Tương tự như thế, sứ đồ Giăng viết: “Điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay của chúng tôi đã chạm đến – nên chúng tôi công bố cho anh em sự sống đời đời vốn ở với Đức Chúa Cha và đã được bày tỏ cho chúng tôi“(1Giăng 1:1-4). Ông cũng là một nhân chứng bằng mắt và tai.
Phao-lô cũng đủ điều kiện như một sứ đồ. Mặc dù ông đã không đồng hành với Đấng Christ suốt cuộc đời của Ngài ở Y-sơ-ra-ên, Đấng Christ đã hiện ra với ông cách cá nhân và huấn luyện ông, đến nỗi ông đã không học hỏi sứ điệp của ông ta từ người khác nhưng bằng sự mặc khải từ Đức Chúa Trời. Ông tuyên bố rằng Tin Lành của ông không phải theo con người, ông cũng không tiếp nhận được điều đó từ loài người, mà qua sự khải thị của chính Chúa Giê-xu Christ (Gal 1:11-12). Chúa đã đi suốt một chiều dài lịch sử với Phao-lô để bảo đảm việc đưa dân ngoại đến cùng Ngài được thực hiện, bởi vì Ngài muốn sứ mạng này được thực hiện bởi một người Do Thái. Sự ủy nhiệm vĩ đại của Chúa Giê-xu với những người bạn Do thái của Ngài vang lên qua những lời nầy: “Hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta, (những người không phải người Do thái, các dân ngoại, các quốc gia, các người ngoại bang), hãy nhân danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh làm báp têm họ, và dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con.“(Ma-thi-ơ 28:19)
Ngài phán điều này với các môn đồ Do Thái của Ngài, và kết quả là Phúc Âm đã tìm được con đường lan truyền ra toàn thế giới. Khi Ngài thăng thiêng, Ngài đã phán với những môn đồ Do Thái của Ngài rằng: “Các con sẽ làm chứng nhân cho Ta tại thành Giê-ru-sa-lem (cho Y-sơ-ra-ên, dân Do Thái), cả xứ Giu-đê và Sa-ma-ri (cho người Sa-ma-ri, một chủng tộc lai, giữa người Do thái với các dân ngoại bang khác khi mười chi phái Y-sơ-ra-ên bị người A-si-ri trục xuất và lưu đày] (2 Các vua 17:7-41, E-xơ-ra 4:10) và đến tận cùng trái đất”(Công vụ 1:8). Tin Lành được truyền rao từ Giê-ru-sa-lem đến khắp thế giới trong những vòng xoay ngày càng mở rộng, và nó được người Do Thái rao giảng trước tiên. Đó là những ống dẫn mà Đức Chúa Trời đã chọn để ban phước cho cả thế giới. Ngài luôn hành động qua Y-sơ-ra-ên. Khi Phao-lô tóm lược các đặc ân của người Do Thái, ông tuyên bố họ là “dân được hưởng danh phận con nuôi, vinh quang, lời giao ước (số nhiều, vì Cựu và Tân Ước được thiết lập và được đóng dấu qua Y-sơ-ra-ên), luật pháp, sự thờ phượng và lời hứa, là dân được sinh ra bởi các tổ phụ, và từ dòng dõi nầy, về phần xác, đã sinh ra Đấng Christ, Đấng trên hết mọi sự, là Đức Chúa Trời đáng được chúc tụng đời đời! Amen.“(Rô-ma 9:4-5).
Thật kinh ngạc biết bao khi Đức Chúa Trời hành động trên khắp thế giới qua Y-sơ-ra-ên! Đức Chúa Trời đã không chọn Y-sơ-ra-ên chỉ vì lợi ích của họ, hoặc vì họ lớn hơn, hùng mạnh hơn, thánh thiện hơn hoặc thông minh hơn các quốc gia khác – mặc dù, điều đáng chú ý là một nhóm nhỏ như vậy đã sản sinh ra rất nhiều người đoạt giải Nobel. Ngược lại, Kinh thánh tuyên bố: “Đức Giê-hô-va tỏ lòng yêu mến và chọn lựa anh em vì anh em đông hơn mọi dân khác, thật ra anh em là dân tộc ít nhất trong các dân tộc” (Phục truyền 7:7-8). Nếu Đức Chúa Trời muốn chọn một dân tộc hùng mạnh theo số lượng đông đảo, Ngài có thể chọn dân Trung Quốc. Ngày nay có khoảng 1,3 tỷ người Trung Quốc! Nhưng Ngài không làm vậy. Ngài đã chọn Y-sơ-ra-ên. Ngay cả sau khi Chúa Giê-xu bị phần lớn dân Do Thái chối bỏ, Phao-lô nói về họ rằng họ “được yêu thương nhờ các tổ phụ mình, vì các sự ban cho và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi.” (Rô-ma 11:28). Người yêu dấu của Đức Chúa Trời. Đó là cách Đức Chúa Trời nhìn thấy Y-sơ-ra-ên, bất chấp mọi sự. Cái gọi là “Y-sơ-ra-ên vô tín” vẫn được Đức Chúa Trời yêu thương.
SỰ CỨNG CỎI CỦA Y-SƠ-RA-ÊN
Và có sự khó khăn nảy sinh ở đây. Phao-lô biết rằng Tin Lành trước tiên dành cho người Do Thái và sau đó là cho người Hi Lạp (Rô-ma 1:16. 2:9-10) – người ngoại bang, người không thuộc Do Thái – và là một sứ đồ, ông bắt đầu kiên định việc rao giảng và dạy dỗ của mình trong các nhà hội, bất luận nơi nào ông đến trong các chuyến truyền giáo của mình. Nhưng ông phải thừa nhận rằng phần lớn ‘các anh em của ông về phần xác, những người Do Thái đồng bạn của ông, từ chối chấp nhận sứ điệp của ông về Chúa Giê-xu. Ông tranh chiến với điều đó. Tại sao vậy? “Vì tôi ước ao có thể chính mình bị nguyền rủa và dứt bỏ khỏi Đấng Christ thay cho anh em tôi là đồng bào của tôi, tức là người Y-sơ-ra-ên.” (Rô-ma 9:3). Ông cố gắng hết sức mình với hi vọng rằng bằng cách nào đó có thể “khơi dậy lòng ganh đua của đồng bào tôi và cứu được một số người trong họ.“(Rôma 11:14). Đó là một nỗi buồn lớn lao và nỗi thống khổ không nguôi trong lòng ông (Rôma 9:2). Tại sao họ không muốn tin? Làm sao điều này có thể xảy ra? Lý do cho điều này là gì?
Ê-SAI 6
Rồi dần dần, hoặc có lẽ bởi sự mặc khải từ Đấng Christ, ông bắt đầu thấy một điều gì đó. Ông khám phá ra rằng Đức Chúa Trời có một kế hoạch. Bằng cách nào đó, có một kế hoạch của Đức Chúa Trời đằng sau sự mầu nhiệm này, đằng sau việc làm cho tấm lòng của người Do Thái mù quáng, điếc tai và cứng cỏi. Bất cứ khi nào Phao-lô cố gắng giải thích Phúc Âm cho anh em người Do Thái của mình, ông đều đụng chạm đến một bức tường bằng gạch! Chỉ một số người trong số họ tiếp nhận được sự mặc khải về Chúa Giê-xu. Vào cuối sách Công vụ, Phao-lô dường như đã ngừng rao giảng cho người Do Thái. Từ từ từng bước ông bắt đầu nắm được lẽ thật trong lời tuyên bố của Ê-sai: “Hãy đi đến với dân này và nói,” các ngươi nghe mà chẳng hiểu gì; các ngươi nhìn mà không thấy chi, Vì lòng dân này trở nên tối tăm; tai họ nặng, mắt họ nhắm, e rằng mắt họ thấy được, tai họ nghe được, và họ trở lại, để Ta chữa lành chăng. [Và Paul nói thêm:] Vậy, hãy biết rằng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã được truyền bá cho các dân ngoại và họ sẽ lắng nghe!“(Công-vụ 28:26-28, trích dẫn Ê-sai 6:9-10).
Sau đó, Phao-lô rao giảng và dạy dỗ một cách công khai về Vương Quốc của Đức Chúa Trời và không có sự ngăn trở nào từ nhà thuê ở Rô-ma (Công vụ 28:31). Dường như sự giao tiếp với người Do Thái đã chấm dứt. Sự li giáo giữa hội thánh và nhà hội sắp sửa bắt đầu. Sự cứu rỗi giờ đây lan truyền đến thế giới người ngoại đạo. Nhưng có một điều gì đó không thể hiểu nổi ở đây. Thậm chí Ê-sai đã cảm thấy điều đó. Ông đã được truyền lệnh phải nói tiên tri, rao truyền sứ điệp, để họ có thể KHÔNG nghe và KHÔNG hiểu và KHÔNG được cứu! Ê-sai 6:8-10: “lúc đó đó, tôi nghe tiếng Chúa phán,” Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta? ‘Tôi thưa,’ có con đây, xin Chúa sai con! ‘Ngài phán: Hãy đi và nói với dân nầy rằng: Hãy nghe để mà nghe, nhưng các ngươi sẽ chẳng hiểu gì; Hãy xem để mà xem, nhưng các ngươi sẽ chẳng thấy chi. Hãy làm cho dân này tối dạ; Nặng tai, nhắm mắt. Kẻo mắt họ thấy được, Rồi họ trở lại và được chữa lành chăng ‘”.
Rao giảng để họ không nghe, không hiểu, không tin, không được cứu, và không dẫn đến đức tin! Nếu đó là sự kêu gọi của một chức vụ Cơ đốc, tôi không nghĩ có nhiều tình nguyện viên cho việc rao giảng như thế. Là một người muốn thấy sự tăng trưởng của hội thánh và nhờ việc rao giảng và dạy dỗ để đem nhiểu người đến với đức tin. Một người muốn ‘thành công! Nhưng Chúa có kế hoạch khác. Rõ ràng, sự cứng cỏi và khước từ của Y-sơ-ra-ên là điều nên xảy ra. Thật phải như thế. Thật là lạ thường, về phương diện bên ngoài có vẻ đó là ý muốn của Đức Chúa Trời. Làm thế nào mà điều này có thể xảy ra được, và kéo dài trong bao lâu? Ê-sai đã bối rối hỏi, “Lạy Chúa, cho đến bao giờ?” Chúa trả lời: “… cho đến khi các thành bị bỏ hoang, không có dân cư, nhà không có người ở, và đất đai trở nên hoang vu hoàn toàn, cho đến khi Đức Giê-hô-va dời dân đi xa, và nhiều nơi trong xứ trở nên điều tàn. Và dù một phần mười vẫn còn trong đất, nó sẽ bị lãng quên. Nhưng như khi người ta đốn cây thông, cây sồi còn chừa gốc, thì giống thánh là gốc của nó“(Ê-sai 6:11-13). Cuối cùng một phần/ phần dân sót sẽ vẫn tồn tại, để cuối cùng (có thể) ăn năn. Khi ‘tất cả người Y-sơ-ra-ên’ sẽ tiếp nhận được sự mặc khải. Nhưng chưa đâu. Đây là cách Chúa đang đối xử với Y-sơ-ra-ên.
Phao lô, trích dẫn lời Môi-se (Phục truyền 29:4) và Ê-sai (Êsai 29:10, Ma-thi-ơ 15:8-9), chép: “ĐỨC CHÚA TRỜI đã ban cho họ một tâm linh mê muội, mắt mù, tai điếc, để họ KHÔNG THỂ THẤY VÀ KHÔNG THỂ NGHE cho đến ngày nay” (Rô-ma 11:8). Có một kế hoạch bí ẩn của Đức Chúa Trời đằng sau tất cả những điều này. Đây là một ẩn số hai mặt. Một mặt, Y-sơ-ra-ên không muốn nhìn thấy, nhưng mặt khác Y-sơ-ra-ên không thể nhìn thấy, không được phép nghe và thấy, bởi vì Chúa có kế hoạch khác của Ngài. Có yếu tố của tội lỗi, và số phận. Một kế hoạch của Đức Chúa Trời là đằng sau tất cả những điều này. Chúa Giê-xu cũng biết rằng lời tiên tri của Ê-sai về sự cứng cỏi của Y-sơ-ra-ên sẽ được ứng nghiệm. Vì lý do đó, Ngài đã nói với người Do Thái trong các dụ ngôn, nhưng với các môn đồ, những người được chọn, thì Ngài đã nói rõ ràng (Ma-thi-ơ 13:13-17). Và Giăng 12:37-41 chép: “Mặc dù Ngài đã làm rất nhiều dấu hiệu trước mặt họ, nhưng họ vẫn không tin Ngài, để lời nhà tiên tri Êsai đã nói đến được ứng nghiệm: “Lạy Chúa, ai sẽ tin điều chúng tôi rao giảng, và cánh tay của Chúa đã được tỏ ra cho ai?”Do đó,, họ KHÔNG THỂ tin, vì Ê-sai còn nói: “Chúa đã khiến mắt họ đui mù, lòng họ chai đá, kẻo mắt họ thấy được, lòng họ hiểu được và hối cải, để Ta chữa lành cho. ‘E-sai đã nói điều này vì ông thấy vinh quang của Chúa Giê-xu và nói về Ngài”.
Nhưng bất chấp điều này, một lần nữa và luôn luôn có một số người còn sót lại trong Y-sơ-ra-ên ăn năn và không quỳ gối trước thần Ba-anh (Rô-ma 11:4-7). Luôn luôn có một dân sót lại theo sự tuyển chọn của ân sủng. Nhưng cuối cùng, vào cuối giai đoạn của lịch sử thế giới này, TẤT CẢ Y-sơ-ra-ên, đã trở về miền Đất Hứa của họ, sẽ được cứu (Rô-ma 11:26a)! Thế hệ cuối cùng trước khi Chúa trở lại. Tất cả Y-sơ-ra-ên.
CÔNG CỤ SỰ CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Có một dòng chảy ngầm trong lịch sử cứu rỗi trên thế giới này. Có một điều huyền nhiệm đang xảy ra. Sự cứu rỗi đến, bởi và qua Y-sơ-ra-ên. Và trước hết, lời chào mời được đưa ra cho Y-sơ-ra-ên, và dân còn sót lại luôn luôn đáp ứng, nhưng nhiều người thì không. Phao-lô nói về Y-sơ-ra-ên “Tất cả tổ phụ chúng ta đều đã được ở dưới đám mây, tất cả đều vượt qua biển; tất cả đều được báp-têm trong đám mây, và trong biển để theo Môi-se, tất cả cùng ăn một thức ăn thiêng liêng, tất cả cùng uống một thức uống thiêng liêng, vì họ uống nơi một tảng đá thiêng liêng đi theo với họ, tảng đá ấy chính là Đấng Christ. Dù vậy, phần nhiều trong số họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời, nên đã ngã chết trong hoang mạc” (1 Cô-rinh-tô 10:1-5). Kinh nghiệm của Y-sơ-ra-ên là một cảnh báo cho cộng đồng Cơ-Đốc. Ngay cả khi bạn đã chịu phép báp-têm khi còn nhỏ, tham gia học trường học Cơ đốc, tiếp nhận được một sự giáo dục Cơ Đốc, đã học trường Chúa nhật, thờ phượng trong nhà thờ và học giáo lý, nhưng nếu lòng bạn không đặt đức tin nơi Chúa, thì tất cả những điều đó chỉ là những hình thức bên ngoài. Việc cắt bì của một người đàn ông Do Thái không có nghĩa gì hơn dấu hiệu nơi xác thịt; có nghĩa đại diện cho “cắt bì tấm lòng” (Rô-ma 2:25-29). “Dân này lấy môi miếng tôn kính Ta, nhưng lòng chúng nó cách xa Ta lắm” Chúa Giê-xu thở dài vì Ngài biết tấm lòng của Đức Chúa Trời và trích dẫn lời tiên tri Ê-sai rằng: “Việc chúng kính sợ Ta chẳng qua là điều răn của loài người; do loài người dạy bảo“(Mác 7:6, Ê-sai 29:13).
Xét về một phương diện, người ta có thể nói rằng chính lỗi lầm của Y-sơ-ra-ên làm cho Đức Chúa Trời đã trừng phạt và phán xét họ, cũng như những ai khước từ ơn cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho họ đều phải chịu trách nhiệm. Tại điểm này, Y-sơ-ra-ên không khác gì so với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên có một ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc khiến Y-sơ-ra-ên cứng lòng và khước từ. Có một sự mầu nhiệm xảy ra với tình trạng điếc tai, mù lòa và sự cứng cỏi trong tấm lòng của Y-sơ-ra-ên. Môi-se đã quan sát và thấy điều nầy trong Phục truyền luật lệ 29:2-4: “Môi-se đã triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên và nói: “Anh em đã tận mắt thấy mọi điều Ðức Giê-hô-va đã làm tại Ai-cập cho Pha-ra-ôn, quần thần và cả xứ của vua ấy. Chính mắt anh em đã thấy những thử thách lớn lao, là những dấu lạ, phép mầu phi thường. Nhưng cho đến ngày nay, Đức Giê-hô-va chưa ban cho anh em tấm lòng để biết, con mắt để thấy hay lỗ tai để nghe.” Đôi mắt họ không có gì sai trật, tai của họ cũng vậy. Họ đã thấy và nghe thấy tất cả các tai vạ mà Đức Chúa Trời giáng xuống cho người Ai Cập. Họ đã từng trải nghiệm phép lạ rẽ nước biển Đỏ. Họ đã được an toàn trên bờ bên kia và nhìn thấy và nghe thể nào Pha-ra-ôn và quân đội của ông chết đuối dưới biển. Tuy nhiên, họ đã không thực sự có được sự hiểu biết đó! Họ đã không thực sự hiểu. Môi-se không quở trách họ. Ông chỉ đơn giản kết luận: Đức Chúa Trời chưa ban cho anh em sự hiểu biết đó.
Đức Chúa Trời đang hành động bằng cách khiến cho Y-sơ-ra-ên trở nên cứng cỏi hơn để mang sự cứu rỗi đến cho thế giới, đến nỗi Y-sơ-ra-ên trở thành “khí cụ mang tính tiêu cực”: “Nhưng do sự phạm tội của họ mà sự cứu rỗi đã đến với dân ngoại… sự phạm tội của họ đã làm giàu cho thế gian, và nếu sự thất bại của họ đã làm giàu cho dân ngoại “. Việc họ bị loại bỏ đã đem lại sự hòa giải cho cả thế gian. Nếu chỉ qua sự khước từ của Y-sơ-ra-ên mà có quá nhiều điều tốt lành và ơn cứu rỗi có thể chuyển đến cho cả thế giới, thì điều gì sẽ xảy ra khi Y-sơ-ra-ên bước vào sự đầy trọn của họ. “thì sự sung mãn của họ sẽ càng làm giàu hơn biết chừng nào!” (Rô-ma 11:11-15). Tấm lòng của họ đã cứng cỏi, trở nên đần độn (2 Cô-rinh-tô 3:14a) đến nỗi những người ngoại bang, chúng ta có thể bước vào. Hội thánh đã luôn luôn đổ lỗi cho Y-sơ-ra-ên vì sự vố tín của họ. Nhưng bạn có thể đổ lỗi cho một người mù rằng anh ta không nhìn thấy gì được chăng? Anh ta không thể nhìn thấy! Anh ta mù! Hoặc bạn có thể đổ lỗi cho một người điếc rằng anh ta không nghe được chăng, ngay cả khi bạn hét vào tai anh ta? Anh ta không thể nghe! Anh ta bị điếc.
NGƯỜI DO THÁI LANG THANG
Sự phá hủy thành phố và đền thờ vào năm 70 S.C đánh dấu bước khởi đầu cuộc lang thang của Y-sơ-ra-ên trên toàn thế giới. Sự tản lạc này của người Do Thái đã góp phần rất nhiều điều cho việc truyền bá Tenach, Kinh thánh và Phúc Âm. Trước đó, đã có nhiều cộng đồng người Do Thái và các nhà hội nằm rải rác khắp Đế chế La Mã, từ Ba-by-lôn đến A-léc-xăn-dri ở Ai Cập và thậm chí ở Rô-ma. Các sứ đồ, và đặc biệt là Phao-lô, luôn luôn bắt đầu chức vụ của họ trong một khu vực có một nhà hội Do Thái được thành lập. Khi họ rao giảng Tin Lành cho dân ngoại, những người ngoại bang này đôi khi hỏi: Đức Chúa Trời này là Ai mà các ông đang nói đến? Các sứ đồ có thể nói với họ rằng: Ngài là Đức Chúa Trời độc nhất và duy nhất, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời của người Do thái, Đấng Sáng tạo trời và đất! Trong tất cả các nhà hội đều có các sách luật pháp, các sách Tiên Tri, Kinh thánh, và sự hiểu biết về một Đức Chúa Trời độc nhất và duy nhất, Đấng sáng tạo ra trời và đất, JHWH, Đức Chúa Trời củaY-sơ-ra-ên, Đấng gìn giữ giao ước, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Và họ có thể tuyên bố rằng Đức Chúa Trời này là Cha của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta, Đấng đã chết vì các tội lỗi của thế giới và đã sống lại, và bây giờ ngồi bên hữu Cha, từ nơi đó Ngài sẽ trở lại để lập vương quốc của Ngài – Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên và Vua của thế giới.
Trên khắp thế giới, các nhà hội được mở ra khi người Do thái bị tản lạc khắp nơi. Giữa tất cả các chủng tộc, các dân tộc, các quốc gia và tôn giáo, Danh Đức Chúa Trời và Ngôi Lời của Đức Chúa Trời đã có mặt trong các nhà hội. “Cái Rễ” rõ ràng phải có mặt về mặt thuộc thể trên toàn thế giới, để người ngoại bang có thể được tháp ghép vào gốc rễ đó, và tham gia vào mối quan hệ giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham, bây giờ được mở rộng trong Giao Ước Mới. Theo sau những người Do Thái bị tản lạc cùng các nhà hội của họ là các giáo sĩ Cơ Đốc, hoặc đôi khi ngược lại, trong mối quan hệ yêu – ghen, nhưng thuộc về cùng một gốc rễ. Tuy nhiên, các nỗi đau khổ của nhà hội Do thái trong suốt nhiều thế kỷ là kết quả của thần học và sự dạy dỗ chống Do Thái thì không sao kể xiết. Hội thánh dường như không nhìn thấy và không hiểu điều này, và tất nhiên các lãnh đạo nhà hội cũng không hiểu điều nầy. Nhưng có lẽ Đức Chúa Trời đã nhìn thấy nó theo cách này! Và việc Cơ-đốc nhân bức hại người Do thái đã không chỉ dừng lại ở lời nói — ở các nước Cơ Đốc ở Châu Âu, những người Do Thái phải chịu khuất phục dưới những cuộc Thập tự chinh, Tôn giáo pháp đình, các cuộc tàn sát, và phòng hơi ngạt, đó chỉ là một vài ví dụ.
Một nhóm nhỏ người Do Thái tin Đức Chúa Giê-xu cũng từ lâu đã là một bộ phận của hội thánh. Nhưng là người Do thái, họ thường không cảm thấy như ở nhà trong hội thánh Cơ Đốc, và khi làm Cơ Đốc nhân, họ đã bị những người anh em Do thái của họ xa lánh và bị coi là các kẻ phản bội. Số phận của người Do thái ‘vô tín’ này trong giới Cơ Đốc giáo đã rất khủng khiếp cho đến ngày nay, khi một người Do Thái tiếp nhận được sự mặc khải về Chúa Giê-xu thì không còn được những người Do Thái đồng bạn coi là người Do thái nữa – theo quan điểm của họ, những Cơ Đốc nhân Do Thái này đã bước qua trại quân của kẻ thù. Đó là lý do tại sao những nỗ lực truyền giáo giữa vòng những người Do Thái đều bị nhiều Ra-bi xem như một hình thức diệt chủng. Họ nói rằng những gì mà Hitler không thể hoàn thành được với phòng chứa hơi ngạt và lò hỏa thiêu tại Auschwitz đang được tiếp tục theo những cách không thể cảm nhận được bởi các đoàn truyền giáo và những nhà truyền giáo nhắm vào người Do Thái để diệt trừ Do thái giáo. Theo quan điểm của những người Do Thái chính thống, nếu các nhà truyền giáo Cơ đốc thành công thì nhiều người Do thái sẽ trở thành Cơ-Đốc nhân, sẽ không còn là người Do Thái nữa – điều này khiến người Do Thái mất linh hồn – và do đó người Do Thái bị suy giảm và cuối cùng sẽ biến mất. Họ được thuyết phục là đối với người Do Thái đến với Chúa Giê-xu và tin Ngài là Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên và Con của Đức Chúa Trời, Đấng đã dâng hiến chính mình như Chiên Con của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của thế gian, có nghĩa là họ đang trở thành ‘Cơ đốc nhân’ và linh hồn của người Do Thái bị cướp đi. Đó là lý do tại sao đôi khi họ cố gắng thiết lập luật chống truyền giáo ở Y-sơ-ra-ên. Nhưng những người Do Thái theo Đấng Mê-si-a đã đưa ra câu trả lời này cho họ: “Không phải như vậy, vì qua việc chúng tôi có đức tin nơi Chúa Giê-xu mà cuối cùng chúng tôi trở nên và cảm thấy giống như những người Do Thái thực thụ!”
ĐỨC CHÚA TRỜI BA NGÔI
Bất chấp sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa hội thánh và nhà hội, cả hai đều có cùng một nguồn gốc, cả hai đều được đặt tên theo giao ước của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên. Chính xác hơn, hội thánh đứng trên cái gốc, đó là mối quan hệ của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên. Dân ngoại đã tháp vào Giao Ước Mới, được lập nên với Nhà Y-sơ-ra-ên và Nhà Giu-đa. Nhưng Phao-lô đã phải nhắc nhở các Cơ Đốc nhân La Mã, “không phải bạn chịu đựng cái rễ, nhưng cái rễ chịu đựng bạn” (Rô-ma 11:18). Cái rễ thuộc linh (và thậm chí có lẽ cả về phương diện tự nhiên) của hội thánh là Y-sơ-ra-ên và các giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Y-sơ-ra-ên. Mặc dù sự thâm nhập sớm của hội thánh bởi các yếu tố của triết học Hi Lạp và những nỗ lực để tách hội thánh ra khỏi gốc rễ Do Thái của mình và để chuyển đổi Y-sơ-ra-ên qua một nền thần học phi Do Thái, đây là chổ rắc rối. Bất kể bản chất ngoại bang, hội thánh được tháp ghép vào cây ô liu được nuôi dưỡng, với gốc rễ dồi dào nhựa sống (Rôma 11:24).
Hãy để tôi chỉ đưa ra cho bạn một ví dụ. Có bao giờ bạn cố gắng giải thích huyền nhiệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi cho một người Do thái, bằng cách sử dụng những lời tuyên xưng đức tin của Cơ Đốc nhân thời cổ đại, được hình thành sâu xa bởi triết học Hi- Lạp không? Đôi mắt của người bạn Do thái của bạn sẽ trố lên! Dù bạn có cố gắng cỡ nào để giải thích hay nắm bắt huyền nhiệm này, thì lẽ đạo ấy vẫn là điều khó hiểu. Cách tiếp cận mà đôi khi tôi đưa ra là đặt câu hỏi: “Hỡi anh bạn Do Thái, anh bạn tin rằng Đức Chúa Trời là chỉ là Một Chúa, phải không?” Có thể họ sẽ trả lời “Ồ phải, chúng tôi tin như vậy”. Rồi tôi nói: “Bạn có biết rằng Chúa Giê-xu, một người Do Thái sùng đạo, cũng tin điều đó chăng? Khi Ngài được hỏi điều răn quan trọng nhất là gì, Ngài trả lời, “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe, Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai” trích dẫn Shema (Phục-truyền 6:4-6) được mọi người Do Thái biết và đóng kín trong mezuzah trên mỗi trụ cửa của người Do Thái. “ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực mà kính mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Mác 12:28-34).
Câu trả lời kinh ngạc: “Chúa Giê-xu có tin điều đó không?” nhắc cho tôi với tư cách là hội thánh, nhiều khi chúng ta che mặt Chúa Giê-xu lại đối với các anh em Do Thái. Sau đó, tôi nói “nhưng là người Do Thái, bạn tin có rằng Torah (Ngũ kinh) là vĩnh cửu và rằng Đức Chúa Trời đã tạo ra mọi thứ qua và bởi Torah, phải không?” “Ồ phải, chúng tôi tin như vậy!” Vậy Ngài có thể làm điều đó – Ngài sáng tạo vạn vật bởi Torah vĩnh cửu và đời đời, Torah đã đó ở với Ngài từ cõi đời đời – và vẫn là một Đức Chúa Trời, Ngài có thể là như vậy sao?”- Họ sẽ nói “tất nhiên Ngài có thể và Ngài đã làm như vậy”. Tôi nói, “bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những tạo vật”, “chúng ta hãy nhìn vào trụ mây và trụ lửa, và bụi gai đang cháy. Đó là những tạo vật mà qua đó Đức Chúa Trời có thể tự mạc khải chính mình và vẫn là một Đức Chúa Trời, phải không?” Họ sẽ trả lời, “ô, chắc chắn rồi”. “Và còn những Thiên sứ của Chúa thì sao, là các Vị trong Sáng thế 18:10 và 13 được gọi là CHÚA – sử dụng bốn chữ cái của Danh JHWH (Gia-vê) không thể phát âm được. Các thiên thần là các hữu thể thọ tạo. Vì vậy, Ngài có thể tự mạc khải chính mình qua Thiên sứ của Đức Giê Hô Va và vẫn là một Đức Chúa Trời, phải không? “- Họ sẽ nói “Chắc chắn”. “Bây giờ hãy xem xét điều này. Liệu Đức Chúa Trời có thể qua Torah tạo ra một con người biểu lộ chính Ngài cho nhân loại không – để tự bày tỏ chính mình ra một cách hoàn hảo cho con người – và Đức Chúa Trời vẫn là một Đức Chúa Trời chăng? Há không có nghĩa là Torah trở thành nên thân xác, hóa thân trong một con người, và vẫn là một Đức Chúa Trời?” Đến lúc này, một số người sẽ nói: “tôi chưa bao giờ nghĩ như vậy trước đây. Điều này có thể có có lý với người Do Thái. Tôi phải suy nghĩ về điều đó”.
Trong số 15.000.000 người Do Thái còn sót lại trên thế giới sau khi bị khủng bố và tàn sát trong các thế kỷ qua, 6.000.000 người Do Thái sống tại Y-sơ-ra-ên. Các báo cáo rất nghiêm túc cho chúng ta biết khoảng 6.000 đến 9.000 người, trong số đó là những người Do Thái theo Đấng ‘Mê-si-a’, những người Do Thái tin Chúa Giê-xu, mặc dù không phải tất cả họ đều là người Do Thái chính cống, một số người đã kết hôn với những người không phải là người Do Thái. Vì vậy, chỉ có 0,1% tín đồ tin Chúa Giê-xu! Khoảng 4-5 triệu người Do Thái sinh sống tại Hoa Kỳ. Có người nói, trong số những người Do Thái đó, khoảng 50.000 (hoặc 1%) là người Do Thái theo ‘Đấng Mê-si-a’. Nhưng đôi khi tỉ lệ ‘người Do Thái chính gốc tham dự các hội thánh của Đấng Mê-si-a chỉ là 20-30%. 70-80% người Do-thái khác là Cơ Đốc nhân dân ngoại, là những người yêu thích phong cách thờ phượng của người Do Thái. Vì vậy có khoảng 99% người Do Thái còn sống ngày nay vẫn chưa tin Chúa Giê-xu.
Nhưng có những người đã tin – và qua nhiều thế kỷ, Đức Chúa Trời luôn ban sự mặc khải về Chúa Giê-xu cho một số người Do thái. Phao-lô gọi họ là “các trái đầu mùa”. –bao gồm chính ông, các sứ đồ khác và tất cả những ‘trái đầu mùa” của người Do Thái’ khác trải suốt trong 2000 năm qua! – như một bảo đảm một mùa gặt lớn mà một ngày kia sẽ đến. Đây là lý do đầu tiên mà Phao-lô nói về “một phần dân Y-sơ-ra-ên sẽ cứng lòng“, trong Rô-ma 11:25. Nhưng có lý do thứ hai cho rằng “một phần …cứ cứng lòng” nữa. Bởi vì khi bạn quan sát những người Do Thái, không phải là không có Đức Chúa Trời, nhưng họ có một điểm mù quáng về Chúa Giê-xu. Một lần nữa, hãy so sánh Rô-ma 9:4-5 với Ê-phê-sô 2:11-13 về những gì dân ngoại có từ lúc mới sinh và những gì người Do Thái có từ lúc mới sinh. Người Do Thái biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời biết người Do Thái. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm cá nhân.
U NÃO
Nhiều năm trước, tôi bị một khối u khổng lồ trong não. Vâng, như bạn có thể dự đoán tôi đã chiến thắng khối u đó. Nhưng về sau tôi đã được bác sĩ phẫu thuật nói rằng khi tôi nằm trên bàn phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật nói với đội làm việc của ông ta rằng: “Tôi chưa bao giờ thấy một khối u nào như thế này trong đời tôi! Nó to tầm quả bưởi. Và nó đã phát triển trên sàn hộp sọ, vì vậy tôi cần phải cắt xương từ sàn sọ. Sau đó, tôi có thể nhìn xuống bên dưới qua lỗ mũi của anh ta!” Điều bác sĩ suy nghĩ lúc đó là”tiếp tục phẫu thuật cho người này là vô ích, nhưng dù sao thì mình cũng phải làm cho xong! “Rồi bác sĩ lấy xương từ xương hông của tôi để vá lại cái lỗ mà ông đã đào trong sàn sọ của tôi, và đặt cái xương ghép vào lỗ cùng với những mô thịt ông lấy từ đùi tôi. Sau đó, ông đã loại bỏ mọi thứ khỏi khối u não mà ông và nhóm nghiên cứu có thể tìm thấy! – cũng cắt bỏ một số mô não – đẩy não trở lại vị trí ban đầu, đóng hộp sọ và khâu lại. Các bác sĩ cũng hút xương sống của tôi để tạo ra áp lực trên chất lỏng não hầu làm cho việc cấy ghép xương có cơ hội ổn định, và sau một tuần, họ đã ngưng công việc hút xương sống. Không có rò rỉ qua mũi! Tôi đã được phục hồi trọn vẹn, ngợi khen Chúa!
Vào thời điểm đó, tôi đã tham gia hơn 20 năm trong một Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Cơ Đốc Hà Lan. Nhiều người ở Hà Lan biết tôi, bởi vì tôi đã tổ chức nhiều chương trình và các buổi trình diễn trên đài phát thanh và truyền hình. Vì vậy, có lẽ một nửa nước Hà Lan đã cầu nguyện cho tôi! Nhưng điều mà tôi không biết vào thời đó là điều rất đặc biệt mà một người Do Thái chính thống biết. Một người mà tôi đã gặp ở Y-sơ-ra-ên vì một bộ phim tài liệu mà chúng tôi đã một lần trình diễn về câu chuyện tuyệt vời của cuộc đời của ông. Ông ta sống sót sau chiến tranh và đang bơ vơ trên thuyền EXODUS, bị người Anh không cho cặp bờ biển Y-sơ-ra-ên. Những người Do Thái này sống sót sau các trại tập trung của châu Âu, đang đứng sau hàng dây thép gai trong một trại tập trung ở đảo Síp! Nhưng cuối cùng ông ta đã tìm cách đến được Y-sơ-ra-ên. Mặc dù chúng tôi đã không liên lạc cá nhân với nhau sau khi bộ phim tài liệu kết thúc, nhưng ông ta dường như vẫn còn giữ liên lạc ở Hà Lan, ông ta nghe nói về tình trạng bệnh tật của tôi. Và ông đã tổ chức một ‘minyan’, một nhóm gồm 10 người Do Thái chính thống. (Để có một cộng đoàn người Do Thái tồn tại, phải có ít nhất 10 người đàn ông có thể cầu nguyện, và khi không còn 10 người nữa, hội chúng tại nhà hội sẽ ngừng hoạt động). Xin lỗi, thưa các quý bà, nhưng đây là cách giáo đoàn Do Thái chính thống tổ chức! Vâng, mười người này sau đó đã đi từ Tel Aviv đến Giê-ru-sa-lem, để cầu nguyện tại ‘kotel’, bức tường phía Tây, mà đôi khi chúng ta gọi là Bức tường Than Khóc. Nơi mà người ta có thể đến gần nơi mà trước đây Đền Thánh tọa lạc tại đó.
Khi đền thờ vẫn còn đó, sự hiện diện của Đức Chúa Trời đã ở trong Nơi Chí Thánh của Đền thờ đó. Vì vậy, gần khu vực lân cận nơi mà Đức Chúa Trời từng cư ngụ, họ đã cầu nguyện hàng giờ, cho đến khi họ có sự thuyết phục bên trong rằng người đàn ông Cơ Đốc giáo này ở Hà Lan sẽ sống. Sau đó, họ trở về Tel Aviv, và thậm chí họ không hề làm phiền khi cho tôi biết về điều đó! Nhiều năm sau có người hỏi tôi, “Anh có biết những gì mà Shlomo đã làm khi anh trải qua phẫu thuật não không?” Tôi nói, “Không, cái gì?” Sau đó anh ấy nói với tôi. Anh hãy nhớ, đó không phải là những người Do thái theo Đấng Mê-si-a, hay Cơ Đốc nhân Do thái, nhưng đó là những người Do Thái chính thống kính sợ Đức Chúa Trời.
Tôi hoàn toàn bình phục. Ngay cả bác sĩ phẫu thuật đã viết cho tôi một bức thư: “Anh bình phục một cách thần kì, và tôi sử dụng từ ngữ đó một cách có chủ đích, bởi vì tôi biết tôi đã làm với bộ não của anh”. Điều này đã chấm dứt sự nghiệp của tôi trong Đài Truyền thanh và Truyền hình Cơ Đốc. Tôi quay lại trường đại học Groningen và Utrecht để hoàn thành các nghiên cứu thần học của tôi và trở thành một mục sư được tấn phong tại một Hội Thánh Cải Chánh Hà Lan, Hội thánh quốc gia Hà Lan. Nhiều năm sau sau đó, có người yêu cầu tôi làm chủ tịch hội ‘Cơ Đốc nhân cho Y-sơ-ra-ên’. Vì vậy, sau khi trải nghiệm kinh nghiệm đe dọa đến tính mạng này và sự chữa lành kỳ diệu, Chúa vừa dẫn dắt tôi đến với mục vụ tại “hội thánh” lẫn mục vụ cho “Y-sơ-ra-ên”, như thể Ngài muốn tôi nắm giữ cả hai. Nếu có thể được, hãy đưa cả hai lại gần nhau hơn. Người Do thái và Cơ-Đốc nhân đều đã cầu nguyện cho sự sự phục hồi của tôi, và Đức Chúa Trời đã đáp lời cho cả hai. Vì vậy, tôi biết từ kinh nghiệm cá nhân rằng người Do Thái biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời biết người Do Thái. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của họ và lắng nghe họ cách cẩn thận và Ngài nhậm lời cầu nguyện của họ. Chắc chắn những người Do Thái có thể biết Đức Chúa Trời, nhưng họ lại mù mờ về Chúa Giê-xu.
NGUỒN CỘI
Hãy trở về với nguồn cội … đó là gì? Đó là giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham, với Y-sơ-ra-ên, sự mặc khải danh Ngài JHWH, qua đó Ngài liên kết với họ, thiết lập mối liên minh của Ngài với họ (Sáng 12:1-3, Xuất 4:13-15). JHWH đại diện cho Chúa trong mối quan hệ Giao ước của Ngài, và vì lý do đó, nó là sự mặc khải lớn lao nhất của Ngài cho con người. Đó là Torah vĩnh cửu, đời đời hiện hữu, là Ngôi Lời sáng tạo, vốn có trước muôn vật, xuất phát từ Cha. Ngôi Lời đã trở nên xác thể (Giăng 1:1-18). Nguồn cội của Y-sơ-ra-ên là Ngôi Lời của Đức Chúa Trời, là Ngôi Lời có quyền năng sáng tạo. Đó là JHWH trong Giao ước Cũ hoặc Giao ước đầu tiên; Ngôi Lời trở nên xác thể, Chiên Con của Đức Chúa Trời trong Giao Ước Mới hoặc Giao ước thứ hai. Đó là Đấng Chịu Xức Dầu, Đấng Mê-si-a, và là Vua. Ngài đã phán “… Ta là Cội Rễ và Hậu Tự của Đa-vít” (Khải huyền 22:16, 5:5, Rô-ma 15:12): “Ta là đường đi, chân lý và sự sống. Chẳng bởi Ta thì không ai được đến với Cha“(Giăng 14:6-9). “Ai đã thấy Ta tức là đã thấy Cha” (Giăng 14:9). “Ta với Cha là một” (Giăng 10:30). Hội thánh được ghép vào gốc rễ cũ.
Hội thánh đã mắng nhiếc nhà hội và chà đạp Y-sơ-ra-ên dưới chân dù hội thánh chỉ đơn thuần là một nhánh tháp vào. Hội thánh, thường mặc trang phục thần học chống Cơ Đốc, và cũng đã tham gia vào việc đàn áp các con cái thật của Đức Chúa Trời ngay cả trong hàng ngũ của mình. Cuối cùng, cùng với tất cả các tôn giáo khác, Hội thánh có thể trở thành một phần chống lại thân thể Cơ-Đốc như một sự hiểu biết mới trên toàn thế giới về một kiểu tôn giáo bắt đầu nảy sinh: con người là Đức Chúa Trời, tôn giáo của con người. Tôn giáo Tân Thời Đại. Tôn giáo của con người. Chủ nghĩa nhân văn (Hi Lạp) mới và văn hóa cổ Hi-lạp trên quy mô toàn cầu. Sư thống nhất của các tôn giáo của thế giới này, với sự tôn trọng đối với sự đa dạng thứ yếu trong các nền thần học của họ. Vào thời kì cuối cùng, phần lớn Cơ Đốc giáo sẽ trở thành một con điếm, say máu các vị tử đạo (Khải Huyền 17:6). Họ đã say sưa máu của người Do Thái và dân ngoại.
Phải chăng là trong ý nghĩa thuộc linh, nhà hội, có mặt khắp thế giới, đã cưu mang cho Hội thánh trải trong các thế kỉ qua? Có phải nhà hội là gốc rễ thuộc linh vô hình của Hội thánh không? Đó có phải là lý do tại sao Đức Chúa Trời khiến người Do Thái tản lạc trên toàn thế giới không? Họ đã không nhận ra điều này, và chắc chắn Hội thánh cũng không. Chúng ta mô tả nhà hội như một người bị bịt mắt. Chúng ta cắt rễ và ăn cắp quả. Tuy nhiên, phải chăng dân Do thái, trong sự hiện hữu về phương diện tự nhiên của họ, là một phần của gốc rễ vô hình? Phải chăng thông qua dân Do thái ấy mà Ngôi Lời đã có mặt trong thế gian, từ Ngôi Lời và bởi Ngôi Lời đó Tin Mừng Cơ Đốc truyền ra khắp nơi? Bây giờ các nhà hội đã bị đóng cửa ở châu Âu, sau sự kiện sáu triệu người Do Thái bị thảm sát, và người Do Thái đang trở về Y-sơ-ra-ên – vì thời điểm mang tính tiên tri của Đức Chúa Trời đã đến để dân Ngài trở lại miền Đất Hứa – phải chăng nguồn cội vô hình của Hội thánh bắt đầu biến mất? Đó là lý do tại sao chúng ta đang trải nghiệm sự sụp đổ của Cơ đốc giáo ở Châu Âu? Khi bạn chặt rễ, những nhánh đã ghép vào cũng sẽ khô héo và cuối cùng sẽ chết. Chúng ta đã cắt hoặc giết chết gốc rễ và đánh cắp quả. Trước hết, chúng ta cắt rễ về mặt thần học trong lịch sử Hội thánh của chúng ta, và cuối cùng chúng ta đã chặt rễ về mặt thể chất bằng cách giết hang triệu người Do Thái. Chúng ta có nhiều điều để ăn năn. Chỉ có sự ăn năn như vậy mới đem lại sự đổi mới đức tin của chúng ta. Cầu xin Đức Chúa Trời ban ơn cho Âu Châu và Hội thánh Âu Châu.
TẤT CẢ Y-SƠ-RA-ÊN SẼ ĐƯỢC CỨU
Một số những đều đã được nói ở trên là suy đoán. Nhưng điều chúng ta biết chắc là Đức Chúa Trời sẽ không bỏ qua điều mà người ta đã gây ra cho dân Ngài. Giai đoạn của ân sủng cho dân ngoại sắp kết thúc. Ngoài châu Âu, có vẻ như thời kỳ ân sủng vẫn còn đang tiếp diễn và nhiều người vẫn tin Chúa tại Bắc và Nam Mỹ, Châu Á và Châu Phi. Chúa Giê-xu đã hứa rằng Tin Lành sẽ được rao giảng đến tận cùng trái đất trước khi Ngài trở lại (Ma-thi-ơ 24:14). Thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại, Tin Lành giờ đây đã được rao giảng khắp thế giới, bằng tất cả các ngôn ngữ chính, hàng trăm giờ rao giảng mỗi ngày, điều này chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử – dù bạn ở bất cứ nơi đâu trên hành tinh này – bằng các đường truyền điện toán cao tốc, bạn có thể nghe Tin Lành, trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới.
Đồng thời, Y-sơ-ra-ên đang bắt đầu hồi hương. Chúa Giê-xu cũng đã tiên đoán về điều này: “Hãy rút ra bài học từ cây vả [Y-sơ-ra-ên]: Khi cành vừa đâm chồi, ra lá thì các con biết mùa hạ sắp đến. Cũng vậy, khi các con thấy tất cả những điều nầy [đang xảy ra] thì biết rằng [vương quốc của Đức Chúa Trời] đã đến gần” (Ma-thi-ơ 24:32-35, Lu-ca 21:29-33). Tất cả những dấu hiệu thời đại mà Ngài đã đề cập trong bài giảng cuối cùng của Ngài (Ma-thi-ơ 24, Mác 13, Lu-ca 21) đã được ứng nghiệm – hoặc đang được ứng nghiệm – trong vòng hai ngàn năm qua, ngoại trừ hai dấu hiệu. Hai dấu hiệu này, việc rao giảng Tin Lành trên khắp thế giới và sự hồi hương của người Do Thái, đang được ứng nghiệm trong thời đại của chúng ta, trước mắt chúng ta. Sự tái lâm của Chúa Giê-xu đang ở trước cửa! Vương quốc đang đến! Khi công tác ân điển của Đức Chúa Trời giữa các dân ngoại đã được hoàn thành, về chất lượng và số lượng, và sự đầy trọn của các dân ngoại đã xong, đã hoàn toàn được tháp vào, thì tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu.
Chúng ta đang ở giữa một ‘sự nhiễu kênh’. Ánh sáng chiếu trên thế giới dân ngoại đang dần dần biến mất, và ánh sáng trên Y-sơ-ra-ên đang chói lòa. Tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu. Chúng ta có ý gì khi nói cả Y-sơ-ra-ên đều được cứu? Phải chăng chúng ta có ý nói rằng mọi người Do Thái hiện đang sống ở Y-sơ-ra-ên, thế hệ cuối cùng trước khi Chúa đến, sẽ được cứu? Liệu tất cả những người đó có tin vào Chúa Giê-xu không? Mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ con? Khi câu hỏi này được đặt ra cho Rebecca de Graaf van Gelder, một tín đồ Do thái nổi tiếng ở Hà Lan, câu trả lời của cô là “Bạn có vấn đề gì với điều đó vậy? Hãy đọc Xa-cha-ri 12:10-14! Mỗi gia tộc riêng của mình! Đàn ông và phụ nữ, mỗi người và mỗi cá nhân! Lãnh đạo (vua, tiên tri, thầy tế lễ) cũng như mọi người khác – ngay cả những người Do thái không có khả năng hiểu biết như Si-mê-i, kẻ đã nguyền rủa vua Đa-vít! Tất cả dân Y-sơ-ra-ên, ngợi khen Chúa! Bạn có phản đối điều đó không? Hãy vui mừng! “Phao-lô nói:” Tất cả Y-sơ-ra-ên”, và Xa-cha-ri nói rằng tất cả các thế hệ, tất cả các gia tộc và vợ của họ, và vâng, ngay cả đất đai sẽ thương tiếc khi họ nhìn vào Người họ và tất cả chúng sẽ nhìn Đấng chúng đã đâm (Xa-cha-ri 12:10-14).
Chuyện này sẽ xảy ra như thế nào? Hãy tiếp tục đọc, vì Phao-lô đề cập đến những sự việc xảy ra “…như lời đã chép”. Ông hỏi, “Nó sẽ xảy ra như thế nào?” Cấu trúc tiếng Hi Lạp được sử dụng ở đây có nghĩa là ‘cũng như’. Tuy nhiên, một số người ngừng đọc tại đây “Và tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” và đặt dấu chấm câu. Sau đó, họ giải thích rằng trong câu này ‘tất cả Y-sơ-ra-ên’ có nghĩa là: tất cả người ngoại và người Do Thái tin Chúa Giê-xu cùng nhau là ‘Y-sơ-ra-ên thuộc linh’. Nhưng đây lại là một hình thức thần học thay thế, trong đó Hội thánh được xem là “người Y-sơ-ra-ên” thật, là tuyển dân mới của Đức Chúa Trời, thay thế cho người Y-sơ-ra-ên vô tín cũ. Nhưng không có nghi ngờ gì trong Rô-ma 9-11 Phao-lô nói về Y-sơ-ra-ên, chứ không phải về hội thánh. Phao-lô không đặt dấu chấm cho câu kết thúc. Ông nói: “… Và tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như lời đã chép“! Trước tiên, ông đã vật lộn với câu hỏi tại sao hầu hết họ không thể nhìn thấy Đức Chúa Giê-xu thực sự là ai. Và sau đó ông ta bắt đầu hiểu rằng thể nào một ngày kia họ sẽ hiểu. Từ đầu đến cuối ông đều đề cập đến người Do Thái, và sau đó ông chỉ đơn giản giải thích cách mà cuối cùng tất cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu. Vì vậy, chúng ta phải đọc tiếp … có một dấu phẩy chứ phải là một dấu chấm sau đó!
Đây là cách điều đó sẽ xảy ra: Như lời đã chép! Và điều gì đã được chép vậy? Đức Chúa Trời phán: “Đấng Giải Cứu sẽ đến từ Si-ôn; Cất bỏ sự vô đạo khỏi nhà Gia-cốp; “Và đây là giao ước Ta lập với họ, khi Ta xóa bỏ tội lỗi họ” (Rô-ma 11:26-27). Chính Ngài sẽ làm điều đó qua sự tuôn đổ Đức Thánh Linh và sự tái lâm của Chúa Giê-xu.
CẦU NGUYỆN VÀ HỖ TRỢ NHÂN ĐẠO
Trong Kinh thánh có một đường hướng rõ ràng cho thấy Đức Chúa Trời đang hành động thông qua Y-sơ-ra-ên để vươn đến thế giới, chứ không phải theo cách khác. Tất nhiên, trong tương lai, trong Vương quốc, các quốc gia trên khắp thế giới sẽ đến Y-sơ-ra-ên và ăn mừng Lễ Lều Tạm ở Giê-ru-sa-lem và mang những món quà của họ đến (Xa-ch-ri 14). Ngay cả ngày nay, người dân từ khắp nơi trên thế giới đang giúp đỡ và hỗ trợ cho Y-sơ-ra-ên, ví dụ, bằng cách ủng hộ người Do Thái và giúp họ trở về Y-sơ-ra-ên, để tạo nên Aliyah. Vì vậy đã có một đường hướng hỗ trợ thực tế từ thế giới dân ngoại đến Y-sơ-ra-ên. Nhưng cũng có một đường hướng thuộc linh chăng? Vâng, trước hết và chính yếu là sự cầu nguyện. Và qua lời chứng Cơ Đốc của mình. Và đôi khi Chúa sẽ ban phước lành qua lời chứng đó bằng cách mở mắt người Do Thái để nhìn thấy Chúa Giê-xu, để họ trở thành một phần của dân sót theo sự lựa chọn của ân sủng. Nhưng sự cứu rỗi cơ bản bắt nguồn từ ngai của Đức Chúa Trời và đi qua Y-sơ-ra-ên đến với thế giới.
Mầu nhiệm về sự vô tín của Y-sơ-ra-ên là huyền nhiệm của việc thâu góp các dân ngoại, và hội thánh. Nói cách chính xác hơn: đó là mầu nhiệm của Đức Chúa Trời “lấy ra một dân cho danh của Ngài” (Công-vụ 15:14-17) và rồi Ngài trở lại “tái thiết nhà của Đa-vít bị sụp đổ“. Sau đó, qua Giê-ru-sa-lem và Y-sơ-ra-ên, sự cứu rỗi sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem vào một thế giới được làm mới lại. Ban đầu, sẽ có một hội thánh Cơ Đốc, một Cô dâu cho Chiên Con, do người Do Thái và người ngoại bang tạo ra mà không có bức tường ngăn cách (Ê-phê-sô 2:11-22), là một hoàng hậu của nhà Vua. Sau đó, cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu và sẽ là nguồn phước ở giữa thế giới.
Y-sơ-ra-ên đang trên đường bước vào sự an nghĩ của họ. Đức Chúa Trời sẽ đến để cho Y-sơ-ra-ên nghỉ ngơi. Chúng ta đã ba lần thấy chữ “cho đến khi” thiên thượng này. Giê-ru-sa-lem bị người ngoại bang giày đạp dưới chân cho đến khi thời kỳ của người ngoại bang được hoàn tất. Y-sơ-ra-ên tạm thời và một phần nào đó cứng lòng cho đến khi sự đầy đủ của dân ngoại, sự viên mãn của hội thánh Cơ Đốc (và chỉ có Đức Chúa Trời biết khi nào đạt đến điểm đó) đến, họ đã được ghép vào gốc rễ, vào Giao Ước Mới được lập với Y-sơ-ra-ên. Và những người Do Thái sẽ không nhìn thấy Chúa Giê-xu cho đến khi họ nói, “…chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!” Nhưng một ngày kia họ sẽ nói như thế.
Cũng hãy lưu ý rằng, cây vả (Y-sơ-ra-ên), bây giờ bắt đầu nảy mầm lá xanh. Việc ứng nghiệm ‘cho đến khi’ thiên thượng này sắp xảy ra. Có sự khẩn cấp trong thế giới của chúng ta. Giống như có ai đó đẩy nhanh các sự việc, nén thời gian lại. Chúa đang vội vàng, dù không ai gây áp lực! Đó là một sự vội vàng thánh thiện, vì Ngài biết rằng nếu những ngày này không được rút ngắn, cắt ngắn, không có xác thịt nào sẽ được cứu (Ma-thi-ơ 24:22, Mác 3:20). Vì vậy, bạn hãy vội vã đến với Ngài để được cứu vớt trong cõi thời gian và cõi vĩnh hằng. Hãy làm ngay bây giờ trong khi vẫn còn thời gian (ân sủng)! Không có lý do nào bạn lại không quỳ xuống ngay bây giờ, và dâng cuộc đời của bạn cho Chúa Giê-xu.
NGƯỜI DO THÁI BIẾT ĐỨC CHÚA TRỜI
Nhưng, một số người hỏi, điều gì xảy ra với người Do Thái đã chết mà không tin Chúa Giê-xu? Họ có được cứu hay là họ bị hư mất vĩnh viễn? Để có câu trả lời, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện mà một người bạn Do thái đã truyền cho tôi. Chính người nầy đã tổ chức ‘minyan’ để cầu nguyện cho sức khoẻ của tôi ở bức tường Than Khóc phía Tây Giê-ru-sa-lem khi tôi phải trải qua cuộc giải phẫu não. Trong Thế Chiến Thứ Hai, khi ông mười một tuổi, ông và các thiếu nhi Do Thái khác bị dẫn vào rừng sâu của đất nước Ba Lan để đến một nơi mà một đường hầm sâu đã được đào sẵn và quân đội đang đứng ở đó, sẵn sàng tác chiến với nhiều súng máy. Ông tách ra khỏi nhóm thiếu nhi và ẩn mình trong những bụi cây dày đặc. Từ một khoảng cách an toàn, ẩn sau một cái cây, ông quan sát xem điều gì sẽ xảy ra. Khi những đứa trẻ đến rìa hào, vị Ra-bi đi kèm với bọn trẻ đã yêu cầu: “Tôi có thể hát và cầu nguyện với các em ấy được không?” Yêu cầu được chấp nhận. Sau đó, các em thiếu nhi cùng với rabbi, đã hát, “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì“. Và tất cả những lời lẽ đẹp đẽ khác của Thi Thiên 23, vốn là một sự an ủi cho rất nhiều người, cả Do Thái và Cơ Đốc nhân, trên giường bệnh trải qua các thời đại. “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi; Cây trượng và cây gậy của Chúa Cây trượng và cây gậy của Chúa (thuộc về người chăn chiên) an ủi tôi“(Thi Thiên 23).
Tôi không thiếu gì vì Chúa là Đấng Chăn Chiên của tôi. Không ai trong số trẻ em này, hoặc ra-bi, biết hay tin Chúa Giê-xu là Đấng Chăn Chiên tốt lành. Họ đã đi vào cõi vĩnh hằng với những lời của bài Thánh Vịnh Do Thái của họ, từ Lời Đức Chúa Trời của họ, trên môi miệng của họ. Chúng ta thường có khuynh hướng quên rằng Thánh Vịnh là sở hữu của người Do thái, các Thi thiên của Y-sơ-ra-ên, và lại nghĩ rằng đó là những bài ca Cơ đốc. Những đứa trẻ Do thái này và ra-bi của họ đã đi vào vĩnh hằng với những lời của Đức Chúa Trời vĩnh cửu trên môi của họ. Đức Chúa Trời vĩnh cửu, Đấng đã bày tỏ những lời này cho Y-sơ-ra-ên. Người Do Thái biết Đức Chúa Trời là Ai, và Đức Chúa Trời có một hiểu biết sâu sắc rằng dân Do Thái là con đầu lòng của Ngài. (Xuất 4:23). Nhiều người Do Thái có thể có một điểm mù về Chúa Giê-xu thực sự là Ai, nhưng họ biết Đức Chúa Trời là Ai.
Những đứa trẻ này và ra-bi của họ có được cứu trong cõi vĩnh hằng không? Tôi là ai để nói nầy nọ? Họ có bị hư mất đời đời bởi vì họ không biết Chúa Giê-xu chăng? Một lần nữa, tôi sẽ không bình luận, nhưng bịt miệng lại. Quyết định đó là việc của Đức Chúa Trời và duy nhất thuộc về Ngài, và việc đó an toàn với Ngài. Người Do Thái tin kính biết Đức Chúa Trời. Đôi khi chúng ta quên rằng chúng ta vốn là những người ngoại đạo, tách rời khỏi Đấng Christ, không có quốc tịch ở Y-sơ-ra-ên, ở ngoài các giao ước (số nhiều) của lời hứa, không có hy vọng và không có Đức Chúa Trời trên thế giới. (Ê-phê-sô 2:12). Là dân ngoại, chúng ta đã được phép bước vào, biết Đức Chúa Trời và cầu nguyện cùng Ngài, thờ phượng Ngài qua Lời của Đức Chúa Trời, Kinh thánh, mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ ra cho Y-sơ-ra-ên. Người Do thái đã viết cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Tôi tin chắc rằng ngay cả Lu-ca, sinh ra và lớn lên ở Hyaspora Hi-Lạp, là một người Do Thái, một người Do Thái Hi-Lạp. Chúng ta đã được cứu và ghép vào gốc rễ của Giao Ước Mới qua Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta, Ngài cũng là một người Do Thái nữa. Qua Ngài, chúng ta đã đến chỗ biết và tôn thờ một Đức Chúa Trời có một và duy nhất, Đấng tạo thành trời đất, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, Cha của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta.
Shlomo nói: “Khi tôi nhìn thấy tất cả những điều này xảy ra – việc giết các em thiếu nhi và ra-bi – tôi đã nghe một tiếng nói! Và ‘tiếng nói’ nói với tôi rằng tôi sẽ sống sót trong chiến tranh. Tôi phải đi đến Y-sơ-ra-ên càng sớm càng tốt sau chiến tranh. Rồi tôi phải lên núi Ô-liu ở Giê-ru-sa-lem trong dịp đầu tiên. Một lần nữa, tại đó tôi nghe những đứa trẻ hát, Tiếng Nói nói với tôi. “Con sống sót sau chiến tranh, đi trên chiếc thuyền ‘EXODUS’ đi từ Bắc Italy đến Y-sơ-ra-ên, nhưng đã bị người Anh bắt buộc quay trở lại, không cho cặp bờ biển Y-sơ-ra-ên và con bị giam giữ tại đảo Síp. Một lần nữa con ở lại đằng sau hàng rào dây thép gai”. Cuối cùng ông ta đã đi bộ đến Y-sơ-ra-ên, qua đất Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay khi có thể, ông đã đi đến núi Ô-liu, và sau đó, ông nói với tôi “Tôi đã nghe những đứa trẻ hát”. Tất nhiên, người ta có thể để lại những kinh nghiệm cá nhân như vậy và chia sẻ chúng với bạn, mà không cần xây dựng các lý thuyết hoặc thần học về những điều đó. Nhưng điều đó đã gây ấn tượng rất lớn cho tôi. Kế hoạch vĩnh cửu của Đức Chúa Trời dành cho người Do thái là việc của Ngài. Trong cơn thịnh nộ của Ngài, đôi khi Ngài đã hành động chống lại Y-sơ-ra-ên trong thế giới này. Nhiều người đã chết trong sa mạc vì cớ sự không tin và bất tuân của họ, nhưng liệu điều đó có nghĩa là họ bị hư mất đời đời không? Y-sơ-ra-ên vẫn là con trai đầu lòng của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời sẽ quyết định về số phận đời đời của họ và sự sống lại của họ. Quyết định đó không phải là của chúng ta. Chúng ta nghĩ mình là ai?
Một câu hỏi khác nữa: Có phải những người ngoại đã thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và lương tâm của họ đã dạy họ sự khác biệt giữa điều thiện và điều ác và ai đã từng nỗ lực sống đúng đắn, họ có bị hư mất đời đời vì họ không biết Chúa Giê-xu không? Tôi có thể hỏi bạn: liệu Đức Chúa Trời có xét đoán theo những gì mọi người biết về Ngài không? Hoặc trên cơ sở những gì họ không biết về Ngài? Phao lô viết về điều này trong bức thư gửi tín hữu Rô-ma, 2:12-16. Khi bạn không thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và bạn quyết tâm chống lại lương tâm của mình, chắc chắn bạn sẽ gặp rắc rối. Hoặc khi bạn là một người Do Thái cố ý chống lại Luật Torah, Lời đã được mạc khải của Đức Chúa Trời trong Luật pháp, các sách Tiên tri và các sách Văn Thơ.- trong Tenach – thì chắc chắn bạn gặp rắc rối. Hoặc khi bạn được nuôi dạy như một Cơ đốc nhân và bạn cố tình quay lưng lại với Chúa Giê-xu và đức tin Cơ Đốc của bạn, thì bạn đang gặp rắc rối và không có lý do gì bào chữa, và bạn sẽ phải lo sợ điều tồi tệ nhất (Rô-ma 1:18-32). Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là công việc của Đức Chúa Trời. (Rô-ma 2:1-11, 12:17-21) Sự phán xét cuối cũng là của Ngài, và chỉ thuộc về một mình Ngài. Nhưng Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và đầy lòng thương xót …
CHẲNG BỞI TA THÌ KHÔNG AI ĐƯỢC ĐẾN VỚI CHA
Nhưng, bạn có thể hỏi, há không phải Kinh Thánh nói, “chẳng bởi Ta (Chúa Giê-xu) thì không ai được đến cùng Cha” hay sao? (Giăng 14:6). Chắc chắn, đó là sự thật. Lời của Đức Chúa Trời trong cả Cựu Ước và Tân Ước đều tuyệt đối đáng tin cậy. Không ai đến với Chúa Cha ngoại trừ qua Chúa Giê-xu – dù người đó có biết hay muốn thừa nhận điều đó hay không! Đức Chúa Trời đã tạo ra thế giới qua Ngôi Lời, Torah, Đấng đã ở với Ngài đời đời. (Giăng 1:1-3) Ngôi Lời đã từng chơi đùa như một đứa trẻ cùng với Cha. (Châm ngôn 8:22-31). Giăng nói rằng Ngài, Chúa Giê-xu, là Ngôi Lời đã trở nên xác thể và ở giữa chúng ta: Torah trong thân xác. (Giăng 1:14) Ngài đã dựng nên thế giới và mọi tạo vật khác. (Cô-lô-se 1:15) Đức Chúa Trời đã tạo ra thế giới qua Ngôi Lời, qua Torah. Tất cả mọi sự đều nhờ Ngài mà đến, “Đấng Christ tiền tại”, và con đường trở về với Đức Chúa Trời, với Chúa Cha, cũng nhờ Ngài. Cho dù bạn biết hay có tin hay không, Kinh Thánh nói như vậy. Ngài phục vụ như Thầy Thượng Tế thiên thượng tại bàn thờ bằng vàng để những lời cầu nguyện của nhân loại được thánh hóa và thanh tẩy, trước khi những lời ấy đến với Đức Chúa Trời. Không ai đến với Chúa Cha, mà không bởi Ngài. Sự thờ phượng thật là trong tâm linh và trong lẽ thật. Luôn luôn mọi lúc, và mọi nơi. Đó là sự mặc khải của Đức Chúa Trời ban cho tấm lòng. Và mọi thứ đều tuôn chảy từ Chúa Cha qua Ngôi Lời và trở về cùng Ngài qua cùng một Ngôi Lời đó, mà đã được làm nên xác thể và ở giữa chúng ta.
Ngày ấy sẽ lạ lùng biết bao, khi Y-sơ-ra-ên cũng được phép nhìn thấy Chúa Giê-xu thực sự là ai. Và ngày đó sẽ đến! Xa-cha-ri đã nói tiên tri: “Ta sẽ đổ Thần ân điển và nài xin trên nhà Ða-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ nhìn xem Ta là Đấng chúng đã đâm, rồi chúng sẽ than khóc Ngài, như người ta than khóc đứa con một, và sẽ thương tiếc Ngài như người ta thương tiếc con đầu lòng “(Xa -cha-ri 12:10-14). Con trai đầu lòng của Đức Chúa Trời, Y-sơ-ra-ên, sẽ đau đớn cay đắng về Con Đầu Lòng của họ, Chúa Giê-xu. Toàn bộ xứ sở, mọi thế hệ, đàn ông và phụ nữ riêng biệt, đều sẽ đau buồn. Thật là một khoảnh khắc đáng nhớ biết bao! Và ai biết được điều này sẽ sớm xảy ra như thế nào? Chúa đang đưa dân Ngài trở về Y-sơ-ra-ên vì đó là nơi Ngài muốn gặp họ. Cuối cùng Y-sơ-ra-ên đang trên đường đến với sự an nghĩ của mình, trên đường của mình để được tháp vào Giao ước mới của mình mãi mãi, và để được làm một phước lành cho thế giới. Ngài sẽ đến để “ban cho Y-sơ-ra-ên sự an nghỉ” (Giê-rê-mi 31:2).
Hội thánh không thế chổ của Y-sơ-ra-ên, cũng giống như phép báp-têm cho trẻ sơ sinh không thay thế việc cắt bì. Y-sơ-ra-ên là Y-sơ-ra-ên, và Hội thánh là Hội thánh. Đức Chúa Trời sẽ làm trọn mọi lời hứa của Ngài cho Y-sơ-ra-ên, như Ngài sẽ làm trọn mọi lời hứa của Ngài cho Hội thánh. Chúng ta cần phải ngừng pha trộn hai thứ này, hoặc thay thế nhau, như đã từng được thực hiện trong quá khứ. Phao-lô đã dạy dỗ chúng ta trong Rô-ma 11 rằng Đức Chúa Trời đã làm cứng lòng và làm mù mắt người Do Thái. Câu 25: “một phần dân Y-sơ-ra-ên đã cứ cứng lòng…”. Vì cớ, một phần người Do Thái, những kẻ biết Đức Chúa Trời là ai, nhưng có một điểm mù về Chúa Giê-xu. Và cũng có một phần, vì cớ luôn luôn có một phần dân sót lại được lựa chọn bởi ân điển. Một phần vì người Do Thái biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời biết họ. Một số người hang hái truyền giáo cho người Do Thái, và có vẻ như họ đang có ý nói rằng: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài đã làm cứng lòng và làm mù mắt họ, nhưng chúng con sẽ làm việc tốt hơn và đưa họ đến với Đấng Christ để họ được cứu”. Mặc dù việc nói về Chúa Giê-xu cho người Do thái là hoàn toàn đúng khi họ hỏi bạn về niềm tin của bạn – nói về ‘hi vọng trong chúng ta’ – chúng ta nên tôn trọng mầu nhiệm kế hoạch của Đức Chúa Trời. Hãy nhiệt thành cầu khẩn cho việc tuôn đổ Đức Thánh Linh lần cuối cùng trên Y-sơ-ra-ên, và bày tỏ tình yêu thương của Chúa Giê-xu bằng lời nói của chúng ta và đặc biệt trong những việc làm của tình yêu và sự liên đới với anh chị em người Do Thái của chúng ta, những người phục vụ cùng một Đức Chúa Trời như chúng ta, là điều Ngài mong đợi từ chúng ta
TẠO RA SỰ GANH ĐUA
Hãy để tôi kết thúc chương này bằng cách kể cho bạn một câu chuyện khác. Một lần kia một ra-bi Do Thái chính thống được mời sang Hà Lan để giảng dạy về Rô-ma 9-11. Ông đã làm một công việc tuyệt vời! Tôi đặc biệt nhớ lại một điều mà ông nói. Ông nói, “Tôi hoàn toàn hiểu rằng các bạn là các Cơ Đốc nhân muốn chia sẻ đức tin của bạn nơi Chúa Giê-xu với chúng tôi. Bạn tin vào những gì bạn tin và bạn muốn chia sẻ điều quý báu nhất nầy trong cuộc đời bạn với cả thế giới. Chúng tôi là người Do Thái biết bạn tin điều gì về Chúa Giê-xu. Chúng tôi sống trong gần 2000 năm giữa các bạn. Các bạn thậm chí đã cố gắng cưỡng bức hoán cải chúng tôi theo Cơ Đốc giáo. Vì vậy, tôi hiểu sự cần thiết mà bạn cảm thấy phải chia sẻ Chúa Giê-xu với chúng tôi. Nhưng tại sao bạn không làm những gì mà sứ đồ Phao-lô bảo các bạn làm? Ông ấy nói rằng các bạn nên kích động chúng tôi ghen tương. Hội thánh đã từng làm gì để kích động chúng tôi ghen tỵ không? Vì chúng tôi là người Do Thái, nên ghen tị với các bạn sao? Bạn có những gì mà chúng tôi người Do Thái không có chứ? Những lý do nào có thể có để cho chúng tôi là người Do Thái phải ghen tị với hội thánh đây? Tại sao các Cơ Đốc nhân không nghiêm túc nỗ lực làm điều đó trong một thời gian, để làm cho chúng tôi ghen tị với các bạn, đến nỗi chúng tôi người Do Thái có thể thực sự nhìn thấy và cảm thấy điều đó nơi các bạn là người theo Chúa Giê-xu. Cái điều mà Ngài đem đến khiến chúng tôi ganh tị. Và sau đó phó thác phần còn lại cho Đức Thánh Linh. Ai biết được điều gì sẽ xảy ra?”
Chỉ bởi tình yêu vô điều kiện và tình liên đới vô điều kiện trong Danh của Chúa Giê-xu, mà người ta mới ghen tị với người khác. Mẹ Teresa làm tôi ghen tị. Bà đã ban cho tình yêu Cơ Đốc chân thật, dù nếu bà chỉ có một giờ trước khi những người nghèo khổ này chết trên đường phố Calcutta. Tình yêu vô điều kiện. Chúng ta, những Cơ Đốc nhân nên được biết đến như là những người yêu thương vô điều kiện trong Danh của Chúa Giê-xu, cho đến cuối cùng. Chúng ta hãy yêu người Do Thái như chưa bao giờ yêu trước đây!
NHỮNG NGƯỜI CANH GÁC TRÊN CÁC BỨC TƯỜNG GIÊ-RU-SA-LEM
Nhiệm vụ chính của chúng ta là xóa đi những mảnh vụn của các thời đại và lấp đầy những lỗ thủng bằng lời cầu nguyện. Chúng ta phải là người canh gác các bức tường của Si-ôn, liên tục tìm kiếm Chúa trong lời cầu xin sự thương xót cho dân Ngài, Êsai 62:1-7 nói: “Vì cớ Si-ôn, Ta sẽ không nín lặng, vì cớ Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ chẳng nghỉ yên, cho đến khi sự công chính của nó chiếu ra như ánh sáng, và sự cứu rỗi nó rực lên như ngọn đuốc. Bấy giờ, các nước sẽ thấy sự công chính của ngươi, tất cả các vua sẽ thấy vinh quang ngươi; người ta sẽ gọi ngươi bằng một tên mới, là tên do chính miệng Ðức Giê-hô-va đặt cho. Ngươi sẽ là mão miện đẹp đẽ trong tay Ðức Giê-hô-va, sẽ là vương miện trong bàn tay Đức Chúa Trời ngươi. Người ta sẽ không còn gọi ngươi là “kẻ bị ruồng bỏ”, chẳng gọi đất ngươi là “đất hoang vu” nữa. Nhưng ngươi sẽ được gọi là “người mà Ta vui thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là “người có chồng”, vì Ðức Giê-hô-va vui thích ngươi, và đất ngươi sẽ có chồng. Như chàng trai sẽ cưới một trinh nữ, thì con cái ngươi cũng sẽ nhận sản nghiệp ngươi; Như chú rể vui mừng vì cô dâu, thì Đức Chúa Trời ngươi cũng vui mừng vì ngươi. Hỡi Giê-ru-sa-lem, trên các tường thành ngươi, Ta đã đặt lính canh; suốt cả ngày đêm, họ sẽ không bao giờ nín lặng. Hỡi những kẻ nhắc nhở Ðức Giê-hô-va, đừng nghỉ ngơi chút nào, cũng đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài tái lập Giê-ru-sa-lem và dùng nó làm sự ca ngợi trong khắp đất”.
Chúng ta phải tuân theo huấn lệnh của Kinh thánh là “cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem” (Thi Thiên 122:6). Làm như vậy là cầu nguyện cho một sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh trên dân cư Giê-ru-sa-lem và cả miền đất Y-sơ-ra-ên. Đó là cầu nguyện cho Sự hiện đến của Chúa hòa bình tới Giê-ru-sa-lem. Đó là cầu nguyện cho các quốc gia Ả Rập xung quanh Y-sơ-ra-ên và cho những người Palestine mà Chúa cũng đã hứa ban cho họ phước hạnh của Ngài. Chúa Giê-xu yêu họ. Ngài đã chết trên thập giá cho họ. Chúa bảo chúng ta nhắc nhở Ngài về những lời hứa Ngài đã hứa và hạ mình cầu hỏi Ngài làm thành những lời hứa ấy, giống như một số thánh đồ vĩ đại trong Kinh thánh đã cầu nguyện. Cầu nguyện cho hòa bình của Giê-ru-sa-lem, cuối cùng là cầu nguyện cho hòa bình đến trên toàn thế giới hầu đến. Đó là cầu nguyện cho sự xuất hiện của Vương Quốc, giống như Chúa Giê-xu đã dạy chúng ta trong bài cầu nguyện chung. Ma-ra-na-tha! Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy đến. Nguyện ơn ân điển của Chúa Giê-xu Christ ở với tất cả chúng ta (1 Cô-rinh-tô 16:22-24, Khải Huyền 22:20-21).
(Bảo trợ phiên dịch: Hội Đồng Phục hưng Liên Hiệp Toàn Cầu)